Tin nóng
05.12.2013
Tại kỳ họp thứ 10 HĐND tỉnh Kiên Giang khoá VIII (diễn ra từ ngày 3 đến ngày 6-12-2013), báo cáo của UBND tỉnh cho thấy tình hình kinh tế - xã hội của Kiên Giang tiếp tục ổn định, phát triển đạt mức tăng trưởng khá cao, quốc phòng – an ninh tiếp tục được giữ vững, hệ thống chính trị vững mạnh.

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 59.788 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010), tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2012. Khu vực I tăng 5,41%; khu vực II tăng 10,71%; khu vực III tăng 12,4%. Trong đó, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế lĩnh vực: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 2,3%; Công nghiệp và xây dựng 2,54%; Dịch vụ 4,56%. Thu nhập bình quân đầu người 44,79 triệu đồng (2.113 USD) đạt 90,2% kế hoạch.

I. Về phát triển kinh tế

1. Tập trung đầu tư phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Sản xuất nông nghiệp, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo ngành Nông nghiệp phối hợp cùng các địa phương tổ chức rà soát, xây dựng định hướng tái cơ cấu của ngành Nông nghiệp giai đoạn 2013-2020. Tiếp tục triển khai thực hiện mô hình cánh đồng mẫu lớn ở các địa phương, gắn với tăng cường công tác chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sản xuất theo hướng đạt tiêu chuẩn VietGap. Sản lượng lương thực năm 2013 ước đạt khoảng 4.471.817 tấn, vượt 1,57% kế hoạch năm 2013 (tương đương 69.131 tấn) và tăng 4,31 % so cùng kỳ năm 2012 (tương đương 184.642 tấn). Tỷ lệ lúa chất lượng cao chiếm 65% tổng sản lượng.

Tuy nhiên, do bị ảnh hưởng của dịch bệnh trên lúa, thời tiết diễn biến phức tạp, ảnh hưởng của mưa bão liên tục nên năng suất lúa giảm gần 0,2tấn/ha và sản lượng giảm 150,6 ngàn tấn so với kế hoạch; sản lượng lương thực cả năm chỉ tăng 68 ngàn tấn so với kế hoạch, thấp hơn 181,4 ngàn tấn so với mức tăng của năm 2012 (năm 2012 tăng 336 ngàn tấn), giá lúa bình quân giảm từ 7-10%. Tốc độ tăng trưởng lĩnh vực nông nghiệp chỉ tăng 4,52% và giảm 2,52% so với năm 2012 (năm 2012 tăng 7,03%); khu vực I tăng thấp, không đạt kế hoạch và giảm so với cùng kỳ (năm 2012 tăng 7,84%).

Thực hiện Nghị định số 42/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa, tỉnh đã phân bổ kinh phí cho các địa phương và hỗ trợ người sản xuất với tổng kinh phí 157,452 tỷ đồng, trong đó kinh phí hỗ trợ cho người sản xuất lúa 80,492 tỷ đồng, hỗ trợ đối với các địa phương sản xuất lúa 76,960 tỷ đồng.

Sản xuất các loại cây trồng và rau màu, phát triển khá ổn định, diện tích, sản lượng các loại cây trồng khác đều tăng so với cùng kỳ, đã gieo trồng được 1.936 ha cây có củ các loại, 1.697 ha dưa hấu và trên 7.378 ha rau màu; mía có 5.161 ha, cây tiêu 630 ha, cây khóm 6.700 ha, cây dừa 5.700 ha.

Chăn nuôi, tình hình giá thức ăn tăng, thị trường giá cả không ổn định, dịch bệnh vẫn còn nguy cơ xảy ra, đã ảnh hưởng đến tâm lý mở rộng và phát triển chăn nuôi của người dân, do đó tổng đàn gia súc, gia cầm thực hiện chưa đạt kế hoạch. Tổng đàn heo giảm 3,86%; đàn trâu tăng 1,09%; đàn bò tăng 6,87%; đàn gia cầm giảm 6,87% so với cùng kỳ.

Công tác phòng, chống dịch bệnh  được thực hiện khá tốt. Kịp thời phát hiện, xử lý có hiệu quả các ổ dịch cúm gia cầm ở huyện Hòn Đất và Giồng Riềng và khống chế không để lây lan diện rộng và đã tiêu hủy gần 7.000 con gia cầm.

Lâm nghiệp, các địa phương đã phối hợp với ngành chức năng triển khai thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống cháy rừng. Hoàn thành việc đo đạc, cấm cột mốc ranh giới đất rừng phòng hộ Phú Quốc. Khoán bảo vệ rừng 11.376 ha; khoanh nuôi rừng tái sinh 500 ha; chăm sóc rừng trồng 322 ha; trồng cây phân tán 620.300 cây.

Thủy sản, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng 581.356 tấn, đạt 99% kế hoạch, tăng 6,05% so với cùng kỳ. Riêng sản lượng tôm nuôi 41.978/47.000 tấn, đạt 89,31% kế hoạch (giảm 5 ngàn tấn so với kế hoạch) và tăng 4,19% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sản lượng tôm nuôi thực hiện chưa đạt kế hoạch. Nguyên nhân do ảnh hưởng bất lợi của thời tiết vào đầu vụ, dịch bệnh lan trên diện rộng, chất lượng tôm giống không đảm bảo; không đủ nước mặn cung cấp cho diện tích tôm nuôi công nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu, thị trường gặp khó khăn nên các doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư và mở rộng sản xuất.

Xây dựng xã nông thôn mới: Đã lập và phê duyệt đề án xã nông thôn mới 118/118 xã. Đến nay xã Tân Hiệp A- Tân Hiệp và xã Mỹ Đức-TX Hà Tiên đã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí; xã Định Hòa- Gò Quao đạt 16/19 tiêu chí; có 11 xã đạt từ 13-16 tiêu chí, 20 xã đạt từ 10-12 tiêu chí, 77 xã đạt từ 6-9 tiêu chí và 8 xã đạt dưới 5 tiêu chí. Tuy nhiên, một số tiêu chí thực hiện còn thấp như: Giao thông, cơ sở vật chất văn hóa, trường học, môi trường và nhà ở dân cư.

2. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010), ước đạt 30.210,76 tỷ đồng, tăng 10,02% so với cùng kỳ. Nhà máy Tynel Kiên Giang đã đưa dây chuyền II vào hoạt động với công suất thiết kế 60 triệu viên/năm, sản lượng tăng gấp 3 lần so với trước, đáp ứng nhu cầu cung ứng vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp qui mô chưa được mở rộng so với trước, sức tiêu thụ sản phẩm chậm nhưng chi phí đầu vào tăng làm cho giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp hụt so với kế hoạch như: Xi măng thấp hơn 250 tấn; thủy sản đông lạnh thấp hơn 5,8 ngàn tấn, trong đó sản phẩm mực đông lạnh giảm 3,5 ngàn tấn so với kế hoạch và giảm gần 1 ngàn tấn so với năm 2012.

- Tình hình đầu tư tại các khu công nghiệp:

+ Khu công nghiệp Thạnh Lộc, tiếp tục triển khai đầu tư xây dựng một số đường trục chính, với tổng chiều dài 2.218 m, tổng kinh phí 23,003 tỷ đồng. Cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho dự án chế biến gỗ MDF của Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam và dự án tận thu chế biến đá Granite của Cty Đầu tư – Xây dựng – Thương mại – Dịch vụ Kim Hải. Đến nay đã 05 dự án đầu tư vào KCN Thạnh Lộc, với tổng diện tích 31,92 ha, vốn đăng ký 2.251,12 tỷ đồng.

+ Khu công nghiệp Thuận Yên, diện tích bồi thường 125,95 ha, chiếm 89,5% diện tích. Đã triển khai nền hạ một phần đường trục chính; thực hiện chi trả bồi thường bổ sung đợt 1 cho 74 hộ/114 hộ với tổng kinh phí 3,391 tỷ đồng và có 67 hộ nhận tiền là 3,215 tỷ đồng đạt 94,8%.

Tuy nhiên, việc thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp còn khó khăn, nguyên nhân do kết cấu hạ tầng chưa được đầu tư hoàn chỉnh; chưa có chính sách hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư.

3. Thương mại – dịch vụ và xuất nhập khẩu

Thương mại-dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước 47.654 tỷ đồng, đạt 97,2% kế hoạch và tăng 16,6% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp của tỉnh đã thu mua, tạm trữ lúa gạo vụ Hè Thu được 230.732 tấn, đạt 136,52% kế hoạch. Do hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, mức thu nhập của người dân tăng không nhiều nên ảnh hưởng sức mua ở khu vực thương mại và dịch vụ và chỉ tăng 12,4% so với kế hoạch và giảm 3,67% so với năm 2012 (năm 2012 tăng 16,07%).

Hoạt động xuất nhập khẩu, tình hình xuất khẩu tiếp tục gặp nhiều khó khăn, do thị trường thu hẹp, sức ép cạnh tranh, giá trị kim ngạch xuất khẩu bị sụt giảm so với cùng kỳ, nhất là mặt hàng gạo (giá gạo xuất khẩu giảm 36,04 USD/tấn so năm 2012 và làm giá trị xuất khẩu nông sản giảm 35 triệu USD), song UBND tỉnh đã chỉ đạo tích cực tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nhằm bù đắp lượng kim ngạch giảm. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2013 ước đạt 663 triệu USD, đạt 100,45% kế hoạch và tăng 11,31% so cùng kỳ. Trong đó, nông sản 410 triệu USD (riêng gạo xuất khẩu 1,020 triệu tấn, đạt 102% kế hoạch và tăng 0,49% so cùng kỳ); hàng hải sản 158 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu 37 triệu USD, đạt 105,71% kế hoạch và tăng 21,27% so cùng kỳ. Do giá trị kim ngạch giảm nên mặc dù kim ngạch xuất khẩu gạo và tôm đông đạt và vượt kế hoạch nhưng tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng không nhiều so với kế hoạch và so với cùng kỳ.

4. Giao thông - vận tải

Các tuyến đường về trung tâm xã, các tuyến đường liên huyện, hệ thống giao thông trên đảo Phú Quốc tiếp tục được đầu tư; đầu tư giao thông nông thôn thực hiện 489 km, nâng tổng số từ trước đến nay 3.212km/7.084 km; hoàn thành 3 tuyến đường về trung tâm xã, nâng tổng số xã trong đất liền được nhựa hóa 96/103 xã, đạt 93% kế hoạch. Phối hợp với các chủ đầu tư thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng do Trung ương quản lý: Tuyến tránh Rạch Giá đạt 97,8%; tuyến Minh Lương – Thứ Bảy, đạt 92,02%; tuyến Thứ Bảy – Ngã Bát, đạt 99,18% và tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi, đạt 25,8%. Vận tải hàng hóa ước 8,03 triệu tấn, tăng 12,2%; vận tải hành khách 53,76 triệu lượt, tăng 3,1% so với cùng kỳ 2012.

5. Tình hình triển khai đầu tư

UBND tỉnh đã tích cực huy động và tranh thủ các nguồn vốn để đầu tư kết cấu hạ tầng. Năm 2013, vốn trái phiếu Chính phủ ứng trước tăng 94 tỷ đồng so với năm 2012 (năm 2013 khoảng 594 tỷ đồng và năm 2012 là 500 tỷ đồng) việc ứng trước vốn trái phiếu Chính phủ đã giúp cho tỉnh tháo gỡ được khó khăn về vốn đầu tư, đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình. Đồng thời, khắc phục tồn tại của các năm trước, năm nay các chủ đầu tư được thông tin danh mục sớm và phân bổ kế hoạch vốn ngay từ đầu năm. Công tác quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản được quan tâm chỉ đạo, gắn với đẩy mạnh giải ngân các nguồn vốn, thực hiện tốt việc phân cấp và giao quyền chủ động cho chủ đầu tư, qua đó từng bước khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.

Tập trung chỉ đạo quyết liệt và kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thi công, nhất là các công trình trọng điểm, gắn với xử lý trách nhiệm các chủ đầu tư có kết quả đầu tư xây dựng cơ bản đạt thấp. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước 28.154,9 tỷ đồng, đạt 95,12% kế hoạch, trong đó: Vốn ngân sách do địa phương quản lý thực hiện 4.139 tỷ đồng, đạt 96,57% kế hoạch; giải ngân 4.042 tỷ đồng, đạt 94,32% kế hoạch. Tuy nhiên, giá trị khối lượng hoàn thành chưa đạt kế hoạch và giảm 13% so năm 2012; giải ngân đạt 94,32% kế hoạch. Trong đó một số nguồn vốn giá trị khối lượng hoàn thành chưa đạt kế hoạch như: Nguồn vốn cân đối qua ngân sách địa phương; nguồn vốn ghi thu ghi chi; nguồn vốn vay ưu đãi.

Thu hút được 02 dự án FDI ở Phú Quốc, tổng vốn đầu tư 76,3 triệu USD (Dự án trường đào tạo nghiệp vụ du lịch, nghĩ dưỡng Thiên đường Phú Quốc và dự án khu vườn tổng hợp nuôi trồng thủy sản kỹ thuật cao), nâng tổng số đến nay đã thu hút được 36 dự án FDI, tổng vốn 2,96 tỷ USD, trong đó: vốn triển khai thực hiện 0,53tỷ USD, đạt 17,76% vốn đăng ký. Chấp thuận chủ trương đầu tư cho 30 dự án, diện tích đất 250 ha, cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 40 dự án, vốn đăng ký trên 4.203 tỷ đồng; vốn triển khai thực hiện ước đạt 3.970 tỷ đồng.

Thành lập mới 1.100 doanh nghiệp, tăng 27,46% so với cùng kỳ, tổng vốn đăng ký 3.100 tỷ đồng; Cấp thay đổi nội dung đăng ký 1.300 lượt, tăng 44,44% so với cùng kỳ. Thực hiện thủ tục giải thể cho 200 doanh nghiệp, chiếm 18% so với số doanh nghiệp thành lập mới và giảm 13,42% so cùng kỳ.

6. Tài chính – tín dụng

Tổng thu ngân sách cả năm ước 4.720 tỷ đồng, đạt 99,9% so dự toán và tăng 12,1% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách ước 8.962,11 tỷ đồng, đạt 107,7% dự toán, tăng7,7% so với cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư xây dựng cơ bản 2.075,53 tỷ đồng, đạt 103,8% kế hoạch; chi thường xuyên ước thực hiện 5.161,2 tỷ đồng, đạt 103,4%. Thực hiện gia hạn, giảm, giãn thuế theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, với tổng số tiền 415,644 tỷ đồng. Chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước những tháng cuối năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ và cắt giảm các khoản chi chưa thật sự cần thiết để bù đắp khoản hụt thu ngân sách của tỉnh (100 tỷ đồng), bằng 02 nguồn thu: Giữ 50% dự phòng của từng ngân sách là 83,445 tỷ đồng; tiết kiệm chi thường xuyên 7 tháng còn lại năm 2013 là 16,555 tỷ đồng.

Hoạt động ngân hàng, chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện tốt việc cho vay nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các giải pháp tín dụng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; giải quyết nợ xấu. Tổng nguồn vốn hoạt động đạt 39.442 tỷ đồng, đạt 97,93% kế hoạch, tăng 12,43%, trong đó vốn huy động tại địa phương 20.810 tỷ đồng, đạt 99% kế hoạch, tăng 13,25% so với cùng kỳ. Vốn vay 12.260 tỷ đồng, đạt 103,9% kế hoạch, tăng 23,78%. Doanh số cho vay ước đến 31/12/2013 đạt 56.937 tỷ đồng, đạt 94,9% kế hoạch; dư nợ cho vay 30.025 tỷ đồng, đạt 104,62% kế hoạch, tăng 12,03% so với cùng kỳ. Thực hiện giãn nợ, điều chỉnh hợp đồng tín dụng, gia hạn và hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông thủy sản, với tổng số tiền trên 2.679 tỷ đồng.

II.Văn hóa – Xã hội

1. Giáo dục và Đào tạo

- Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học, tổ chức tốt các kỳ thi ở các cấp học tốt nghiệp THPT. Kết quả có 10.036 học sinh đỗ tốt nghiệp THPT, đạt 99,53%; giáo dục thường xuyên 1.150 học sinh, đạt 87,38%; xét tốt nghiệp THCS 14.785 học sinh đạt 98,85%; tỷ lệ học sinh đủ điều kiện vào các trường đại học, cao đẳng chiếm 79,87%, tăng 18,8% so với năm 2012, trong đó có 36% trúng tuyển nguyện vọng 1; tỷ lệ học sinh bỏ học ở tiểu học giảm 0,08%; học sinh THCS giảm 0,1%; học sinh THPT giảm 0,09%, huy động trẻ vào mẫu giáo đạt 89,05% và tăng 1,5% so với 2012, học sinh 6 – 14 tuổi đạt 96,2%.

Công nhận xóa mù chữ 281 người, nâng tỷ lệ người biết chữ đạt 98,35%. Cơ sở vật chất trường, lớp học được quan tâm đầu tư, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia 132 trường, tăng 17 trường so với năm 2012; có 103/145 xã, phường có trường mầm non, đạt 71, 03% và tăng 27 xã, phường so với năm 2012. Đồng thời, ban hành chính sách ưu đãi, thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đã giao gần 20.000 m2 đất để các nhà đầu tư xây các trường tại Tp. Rạch Giá và Phú Quốc. UBND tỉnh phối hợp với Trường Đại học Nha Trang đã hoàn chỉnh đề án thành lập Trường Đại học Kiên Giang trình Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Tuy nhiên, công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vẫn còn khó khăn, cơ sở vật chất trường lớp, đồ dụng dạy học vẫn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, hiện còn thiếu 761 phòng học, 42 xã chưa có trường mầm non; do thiếu biên chế tuyển dụng nên hiện nay còn thiếu gần 1.000 giáo viên, trong đó mầm non 700 giáo viên, tiểu học 200, trung học cơ sở 100 giáo viên.

2. Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân

Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, các chương trình y tế quốc gia tiếp tục được quan tâm thực hiện, gắn với triển khai thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh, các bệnh truyền nhiễm giảm đáng kể so với cùng kỳ. Tính từ đầu năm đến ngày 03/11/2013 đã xảy ra 1.088 ca mắc bệnh tay -chân -miệng, giảm 2.226 ca (giảm 51,1%); 821 ca mắc sốt xuất huyết, giảm 3.158 ca (giảm 74%) so với cùng kỳ, không có ca tử vong. Mạng lưới y tế, đội ngũ y bác sĩ, nhất là tuyến cơ sở tiếp tục được tăng cường, đến nay có 61% trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia, tăng 10% so với năm 2012. Chỉ đạo các đơn vị y tế công lập đổi mới cơ chế hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản, gắn với đẩy mạnh xã hội hóa một số dịch vụ y tế trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập; xây dựng giá một số dịch vụ khám, chữa bệnh theo hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương.

Công tác kiểm tra vệ sinh ATTP được quan tâm tăng cường, đã kiểm tra 18.178 cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ ăn uống có 573 cơ sở vi phạm, trong đó phối hợp kiểm tra và xử lý vi phạm 02 cơ sở sản xuất bún và bánh hỏi có chứa chất Tinopal (chất gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng); xảy ra 01 vụ ngộ độc tập thể tại Công ty BIM ở huyện Giang Thành, làm 46 người bị ngộ độc ở mức độ nhẹ. Tuy nhiên, cơ sở vật chất, thiết bị y tế và đội ngũ y bác sỹ ở cơ sở còn hạn chế, ý thức trách nhiệm của một số y, bác sĩ chưa cao còn để xảy ra những sai sót trong xử lý chuyên môn; các vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, ngộ độc thực phẩm vẫn còn xảy ra.

3. Thực hiện các chính sách xã hội, lao động và việc làm

Quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cho các gia đình chính sách, người có công và đồng bào dân tộc Khmer, các hộ thiếu đói giáp hạt và cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, nhất là trong các dịp lễ, Tết, với tổng kinh phí trên 39,316 tỷ đồng, riêng hỗ trợ trong dịp Tết Nguyên đán 2013, với số tiền và quà trị giá 21,472 tỷ đồng. Triển khai kế hoạch sử dụng vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2013. Thực hiện BHYT cho hộ nghèo, hộ cận nghèo đạt 100% (hộ nghèo 74.367 thẻ, cận nghèo 77.633 thẻ), mua BHYT cho 1.970 đối tượng theo Quyết định 62 và trợ cấp xã hội cho 34.589 đối tượng, tổng kinh phí 53,65 tỷ đồng. Số người tham gia BHYT là 877.374 người, đạt 52% so với dân số.

Tổ chức các đoàn thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, người có công nhân các ngày lễ, tết, kỷ niệm. Thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động, nhất là lao động nông thôn, đã giải quyết việc làm cho 33.100/33.000 người, đạt 103% kế hoạch, trong đó lao động ngoài nước 30 người; đào tạo nghề cho 24.200 lượt người, đạt 80,67% kế hoạch; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 43%, trong đó đào tạo nghề đạt 32%; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,73% (theo số liệu thống kê sơ bộ). Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề, xuất khẩu lao động chưa đạt kế hoạch; còn xảy ra việc cấp thể bảo hiểm y tế trùng lắp cho các đối tượng hộ nghèo và cận nghèo, gây lãng phí, một số quy định về việc mua bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh ban đầu đối với người có thẻ bảo hiểm y tế còn rườm rà, gây khó khăn cho người dân nên người dân chưa thật sự quan tâm và tự nguyên tham gia.

4. Văn hoá - thể thao và du lịch, Thông tin và truyền thông

- Ngành Văn hoá - thể thao và du lịch đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao thiết thực nhân các ngày lễ, kỷ niệm...Trong đó, đã phối hợp tổ chức thành công cuộc họp mặt kỷ niệm 40 năm chiến thắng trở về và Lễ tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh tại Phú Quốc; Chương trình "Hướng về biên giới, biển đảo quê hương" tại Tp. Rạch Giá; kỷ niệm 30 năm thành lập huyện đảo Kiên Hải và 20 năm thành lập xã Thổ Chu huyện Phú Quốc; kỷ niệm 145 năm ngày hy sinh của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực; kỷ niệm 53 năm ngày hy sinh của Anh hùng lực lượng vũ trang Mai Thị Nương (lần thứ I) tại huyện Giồng Riềng. Nhìn chung, các lễ hội được tổ chức trang trọng, an toàn, tiết kiệm, chất lượng và quy mô được nâng lên, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân và các du khách đến tham dự, trong đó đã vận động quyên góp kinh phí trên 1,2 tỷ đồng từ các nhà hảo tâm, mạnh thường quân để tổ chức lễ hội Nguyễn Trung Trực, đây là điểm sáng trong việc huy động sức dân và cần tiếp tục phát huy, nhân rộng.

Ngoài ra, đã tổ chức xong Đại hội Thể dục Thể thao cấp xã, phường, thị trấn và tổ chức Đại hội Thể dục Thể thao điểm cấp huyện tại thị xã Hà Tiên; tổ chức Lễ viếng Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp trang trọng tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và các địa phương. Chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được nâng lên, có 85% hộ gia đình, 72% ấp, khu phố và 95% cơ quan, đơn vị được công nhận đạt chuẩn văn hóa; 16% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hóa 03 năm liên tục. Phong trào thể thao quần chúng có bước phát triển, số người tham gia tập luyện TDTT thường xuyên tăng lên rõ rệt, đạt 100% kế hoạch, tăng 0,5% so với cùng kỳ và đạt 23,5% dân số.

Tổng lượt khách du lịch ước cả năm 3,850 triệu lượt khách, đạt 93,40% kế hoạch và tăng 4,98% so với cùng kỳ, trong đó khách đến các điểm du lịch 2,660 triệu lượt khách, tăng 2,76%; khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch đạt 1,180 triệu lượt khách, tăng 10,39% so cùng kỳ. Riêng khách quốc tế đến Phú Quốc giảm 3,18% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng du lịch chưa được đầu tư đồng bộ, cơ sở lưu trú chưa đáp ứng nhu cầu của du khách (đạt chuẩn sao còn ít), sản phẩm du lịch còn hạn chế, chưa hấp dẫn và thu hút du khách.

- Công tác thông tin, tuyên truyền được tăng cường, chương trình cung ứng dịch vụ viễn thông công ích trên địa bàn được quan tâm; tăng cường kiểm tra an toàn mạng lưới đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt. Đã ban hành các kế hoạch phát triển công nghiệp Công nghệ thông tin và thúc đẩy ứng dụng phần mềm mã nguồn mở năm 2013 và giai đoạn 2013-2015; thực hiện các nội dung của đề án đưa Việt Nam trở thành nước mạnh công nghệ thông tin - truyền thông; phát triển hệ thống truyền thanh cơ sở tỉnh Kiên Giang. Kiện toàn Ban Chỉ đạo Công nghệ thông tin tỉnh; đăng ký lộ trình cung cấp dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan nhà nước trong tỉnh giai đoạn 2013-2015. Toàn tỉnh hiện có 140 điểm Bưu điện văn hóa xã, trong đó có 24 điểm có hoạt động Internet; có 1.800.000 thuê bao điện thoại, trong đó: 130.000 thuê bao cố định; 1.670.000 thuê bao di động; có 65.000 thuê bao Internet.

5. Khoa học công nghệ và môi trường

- Hoạt động khoa học và công nghệ có những chuyển biến tích cực, số đề tài khoa học nghiên cứu cấp bộ, cấp tỉnh và ứng dụng các mô hình được đẩy mạnh triển khai. Tổ chức lễ trao giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể Khóm Tắc Cậu, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý nước mắm Phú Quốc cho 68 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nước mắm đủ điều kiện. Đẩy mạnh việc cung cấp thông tin về hàng rào kỹ thuật trong thương mại của các nước thành viên WTO. Tăng cường thanh tra, kiểm định đo lường, chất lượng xăng dầu, gas đốt, mũ bảo hiểm, hàng bao đóng gói sẵn đối với phân bón và thức ăn gia súc. Triển khai công tác ươm rừng ngập mặn và trồng mới một số loài cây ngập mặn tại huyện An Biên; rà soát đánh giá hiện trạng của dự án thành lập Khu Bảo tồn loài-sinh cảnh Phú Mỹ.

- Công tác quản lý tài nguyên, môi trường và khoáng sản được quan tâm thực hiện khá tốt, tổ chức lấy ý kiến Luật Đất đai (sửa đổi); hoàn thành Quy hoạch sử dụng đất tỉnh đến năm 2020 và tổ chức công bố quy hoạch theo quy định; triển khai lập, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2015 tại các huyện, thị xã, thành phố. Tập trung chỉ đạo thực hiện đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến nay toàn tỉnh đạt 85,5% so với diện tích cần phải cấp. Chỉ đạo thực hiện tốt quản lý nhà nước về hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản trên địa bàn. Chỉ đạo thu hồi chủ trương đầu tư đối với các dự án ở huyện Phú Quốc do không triển khai đầu tư theo đúng cam kết và theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, đã thu hồi 72/95 dự án và đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép các chủ đầu tư tiếp tục đầu tư đối với 23 dự án còn lại.

Tuy nhiên, chất lượng các đề tài khoa học chưa cao, ứng dụng vào thực tiễn còn hạn chế; tình trạng ô nhiêm môi trường vẫn chưa được xử lý có hiệu quả, nhất là ở các cụm công nghiệp có mùi (Cảng cá Tắc Cậu – huyện Châu Thành).

6. Công tác dân tộc, tôn giáo

Tình hình kinh tế, đời sống văn hoá-xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ổn định và có bước phát triển, tỷ lệ hộ nghèo bình quân giảm khoảng 1%; tạo điều kiện cho 7.804 hộ đồng bào dân tộc vay vốn, với tổng số tiền 65,683 tỷ đồng để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống; tổ chức 58 lớp dạy nghề và tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho 1.695 thanh niên và nông dân đồng bào dân tộc Khmer, với kinh phí trên 800 triệu đồng; quan tâm tổ chức các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer: Lễ Sene Đôn-Ta, Chôl-Chnăm-Thmây, trong đó phối hợp tổ chức ngày Hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch lần thứ VII tại huyện Gò Quao nhân dịp lễ Ok Om Bok, qua đó thu hút đông đảo đồng bào dân tộc ở các địa phương đến giao lưu, thi đấu thể thao và tham gia lễ hội; tạo điều kiện trùng tu, sửa chữa một số di tích thờ tự lịch sử, giữ gìn văn hóa dân tộc truyền thống, đã hoàn thành phần thi công hoa văn công trình tháp 4 sư liệt sĩ, huyện Châu Thành, với kinh phí 2,5 tỷ đổng; trình độ dân trí trong đồng bào dân tộc Khmer từng bước được nâng lên, năm 2013 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 100%, phong trào học chữ Khmer tiếp tục phát triển và được nhân rộng, hiện có 24 trường trong vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer có tổ chức dạy chữ Khmer trong giờ học chính khóa. Đầu tư cơ sở hạ tầng cho 5 xã biên giới, lưới điện cho các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer còn khó khăn. Hội tương tế người Hoa đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú, thiết thực nhân dịp Tết Nguyên đán: Tổ chức họp mặt đầu xuân, lễ hội múa lân sư rồng, lễ hội quốc thái dân an.

Tình hình sinh hoạt tôn giáo ổn định, đại bộ phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo phấn khởi, yên tâm hành đạo, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, phong trào xoá đói giảm nghèo, đẩy mạnh các hoạt động từ thiện nhân đạo. Tạo điều kiện cho thành lập một số chùa, tịnh xá, ban trị sự, giáo họ và đảm bảo hoạt động tôn giáo đúng pháp luật.

III. Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm chỉ đạo thực hiện

- Các ngành và địa phương triển khai thực hiện đạt một số kết quả tiến bộ về công tác cải cách hành chính, UBND tỉnh đã ban hành và triển khai Kế hoạch số 35/KH-UBND ngày 12/4/2013 về thực hiện đánh giá chấm điểm theo tiêu chí, tiêu chí thành phần Chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh cho các sở, ban ngành, huyện, thị, thành phố. Ban hành quyết định công bố 20 thủ tục hành chính đối với lĩnh vực trọng tài thương mại, giám định tư pháp, giải quyết khiếu nại, tố cáo; ban hành 06 quyết định công bố bộ thủ tục hành chính thuộc sở, ngành. Hướng dẫn xây dựng kế hoạch và báo cáo kết quả chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định 158/2007/NĐ-CP của Chính phủ. Ban hành các quyết định về việc phân cấp tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh và quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm đối với công chức, viên chức giữ chức vụ trưởng, phó phòng và tương đương; tăng cường công tác quản lý cán bộ công chức, viên chức và người quản lý tại doanh nghiệp thuộc tỉnh; rà soát tình hình quản lý biên chế công chức, viên chức đơn vị sự nghiệp y tế và giáo dục.

Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Triển khai xây dựng vị trí việc làm đối với đơn vị sự nghiệp công lập và thẩm định xong 26/35 đơn vị sở, ban, ngành cấp tỉnh và UBND cấp huyện. Trình các Bộ, ngành Trung ương: Xin chủ trương thành lập phường Mỹ Đức thị xã Hà Tiên và nâng thị xã Hà Tiên và huyện Phú Quốc lên thành phố thuộc tỉnh, đề án thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Quốc; đề án về mô hình tổ chức Đặc khu hành chính - kinh tế đặc biệt Phú Quốc trực thuộc Trung ương. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm, trong đó chú trọng đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức quản lý nhà nước. Tổ chức nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm cải cách hành chính ở một số tỉnh, thành phố và mạnh dạn tổ chức tốt thi tuyển công chức theo hình thức cạnh tranh, đây là năm đầu tiên thực hiện, qua đó tạo sự công khai, minh bạch trong thi tuyển công chức.

- Triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; UBND tỉnh đã ban hành Chương trình số 178/CTr-UBND ngày 16/4/2013 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, chỉ đạo các ngành và địa phương xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện ở ngành và địa phương mình, tổ chức tốt việc hướng dẫn kê khai tài sản cho các đối tượng theo chỉ đạo của Chính phủ, công tác thanh tra, kiểm tra và phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tiêu cực, tham nhũng được quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt một số kết quả tích cực. Số vụ tham nhũng xảy ra 06 vụ, 09 bị ban, xảy ra trên các lĩnh vực có liên quan đến: Đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý tài chính công và tài chính doanh nghiệp, trong đó có 01 vụ nghiêm trọng.

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện cơ chế một cửa liên thông lĩnh vực đất đai giữa cấp xã và cấp huyện còn chậm; nhiều nơi thực hiện công tác kiểm soát thủ tục hành chính và niêm yết công khai thủ tục hành chính chưa theo quy định, vẫn còn tình trạng đặt thêm thành phần hồ sơ, quy trình và thời gian giải quyết trái quy định. Số vụ tham nhũng xảy ra tăng 02 vụ so với cùng kỳ, trong đó có 01 vụ nghiêm trọng.

IV. Quốc phòng - an ninh, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đối ngoại

1. Quốc phòng - an ninh.

- Tham gia và tổ chức thực hiện các đợt diễn tập các cấp đạt và vượt chỉ tiêu, chất lượng khá, tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2013 đạt yêu cầu và kế hoạch đề ra; hoàn thành tổng kết 10 năm đào tạo cán bộ quân sự Ban Chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn (2002-2012). Trước tình hình an ninh chính trị ở Campuchia diễn biến phức tạp tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo và xây dựng phương án xử lý các tình huống xảy ra trên tuyến biên giới Việt Nam-Campuchia.

- Chỉ đạo các ngành và địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả các kế hoạch đảm bảo trật tự an toàn xã hội và an toàn giao thông trong các ngày lễ lớn, Tết, các ngày lễ kỷ niệm, lễ hội và một số sự kiện quan trọng của tỉnh. Các cơ quan Tư pháp đã sớm kết thúc điều tra và đưa ra xét xử các vụ án nghiêm trọng, tham nhũng; phối hợp tốt với các cơ quan chức năng, Mặt trận và các đoàn thể để giải quyết có hiệu quả các vụ, việc tụ tập đông người khiếu kiện, gây rối làm mất an ninh trật tự và kịp thời điều tra, khởi tố các đối tượng cầm đầu, kích động, gây rối, qua đó góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Tính đến hết tháng 10, phạm pháp hình sự được kiềm chế so với năm 2012, đã xảy ra 1.051 vụ, giảm 11 vụ so với cùng kỳ năm 2012, trong đó tội phạm kinh tế, tham nhũng tăng 54 vụ. Nổi lên là: Tội phạm giết người, cố ý gây thương tích, hiếp dâm, trộm cắp tài sản, giết người do mẫu thuẫn cá nhân. Đã điều tra khám phá 887 vụ, đạt 84%, bắt 1.105 đối tượng, trong đó án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng khám phá 83/83 vụ, đạt 100%. Cháy, nổ xảy ra 30 vụ, giảm 35 vụ so cùng kỳ, ước thiệt hại trên 13 tỷ đồng, làm chết 03 người, trong đó xảy ra một vụ cháy chợ An Minh, ước 5 tỷ đồng, không thiệt hại về người.

- Tính từ đầu năm đến ngày 31/10/2013 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 99 vụ tai nạn giao thông, giảm 01 vụ (giảm 1%); làm chết 79 người, giảm 01 người (giảm 1%); bị thương 62 người, tăng 06 người (tăng 11%) so với cùng kỳ 2012. Nguyên nhân tai nạn xảy ra chủ yếu do người điều khiển phương tiện sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông, phóng nhanh, vượt ẩu, chạy quá tốc độ quy định.v.v...

Tình hình tội phạm trật tự xã hội tuy giảm so với cùng kỳ nhưng tội phạm kinh tế, án tham nhũng, trộm cắp tài sản, giết người do mẫu thuẫn cá nhân có xu hướng gia tăng.

2. Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ khiếu kiện đông người liên quan đến lĩnh vực đất đai, số đơn thư khiếu nại, tố cáo giảm 30,3% (310 đơn) so với cùng kỳ năm 2012. Kết quả đã giải quyết 599/706 đơn khiếu nại, đạt 84,84 %; 28/34 đơn tố cáo, đạt 82,35 %. Phối hợp với Thanh tra Chính phủ tổ chức đối thoại với 189 hộ dân thuộc huyện Hòn Đất, Giang Thành khiếu nại đòi lại đất cũ, gắn với tiếp tục rà soát các vụ khiếu nại phức tạp theo Kế hoạch số 1130/KH-TTCP của Thanh tra Chính phủ, được đánh giá tốt.

Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo đã thu hồi cho Nhà nước 10,16ha đất nông nghiệp và 83,5 triệu đồng; giải quyết giao cấp và giữ ổn định cho công dân sử dụng 241,75ha đất nông nghiệp và 8.890m2 đất phi nông nghiệp; bồi thường bổ sung cho công dân 1,3 tỷ đồng và 20 căn nhà; thu hồi 20 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cấp sai quy định; cắt trợ cấp người có công do cấp sai quy định 03 trường hợp; quyết định xử phạt vi phạm hành chính 03 trường hợp, với số tiền 31,2 triệu đồng. Kết thúc 52/77 cuộc thanh tra, thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài chính ngân sách, đầu tư và xây dựng. Qua thanh tra phát hiện sai phạm 47,581 tỷ đồng, trong đó sai phạm tại huyện Tân Hiệp với số tiền 26,913 tỷ đồng. Kiến nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm đối với 56 tập thể, 102 cá nhân, kiểm điểm có hình thức kỷ luật 01 tập thể BCH Huyện ủy, 43 cá nhân; chuyển Cơ quan điều tra làm rõ 02 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện đông người liên quan đến lĩnh vực đất đai từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp; các tranh chấp mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân chưa được quan tâm giải quyết có hiệu quả từ cơ sở.

3. Hoạt động đối ngoại

Quan hệ đối ngoại trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội tiếp tục được mở rộng, nhất là đối với các tỉnh thuộc Vương quốc Campuchia, qua đó ký kết 6 thỏa thuận quốc tế, đồng thời đã phối hợp tổ chức Hội nghị sơ kết 02 năm hợp tác giữa tỉnh Kiên Giang với các tỉnh Kép, Sihanouk – Campuchia. Ngoài ra, đã xúc tiến trao đổi để tiến tới ký kết hợp tác với tỉnh Kherson (Ucraina), Ústí (Cộng hòa Séc). Trao đổi thông tin và kêu gọi đầu tư với các Tổng lãnh sự Anh, Đan Mạch, Hà Lan. Xây dựng và hoàn thành cột mốc 308, 309; phối hợp với đoàn của Tổng lãnh sự Thái Lan khảo sát tiềm năng kinh tế và du lịch đường biển Việt Nam - Campuchia - Thái Lan. Triển khai thực hiện Quy chế quản lý biên giới, xây dựng và bảo vệ tốt đường biên, mốc giới, xử lý ổn thỏa các sự việc nảy sinh dọc theo tuyến biên giới biển, bộ. Hoạt động đối ngoại tuy được mở rộng nhưng hoạt động hợp tác, phát triển kinh tế, nhất là giữa Kiên Giang với các tỉnh, thành phố của Campuchia chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của các bên.

Năm 2014 là năm thứ tư thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và kế hoạch 5 năm 2011-2015 trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn, hạn chế đan xen.

Theo dự báo, tình hình chính trị - xã hội tiếp tục ổn định, sự phục hồi của nền kinh tế nước ta sẽ rõ rệt hơn. Chính phủ sẽ ban hành các chính sách hỗ trợ cho: các đối tượng chính sách, người lao động và người thu nhập thấp; tháo gỡ khó khăn hỗ trợ sản xuất kinh doanh; hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm nông sản, trong đó có: Lúa, tôm. Một số dự án, công trình trọng điểm của tỉnh sẽ được khởi công mới và hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng như: Cầu sông Cái Bé, Cái Lớn, cầu Trung tâm lấn biển Tp. Rạch Giá, đường điện tuyến cáp ngầm Hà Tiên – Phú Quốc; Bệnh viện đa khoa tỉnh, đường 964; các chính sách thu hút đầu tư vào Phú Quốc và các khu công nghiệp của tỉnh sẽ được ban hành; những thành tựu đã đạt được từ sau Đại hội Đảng bộ lần thứ IX đến nay…, sẽ tạo tiền đề và động lực thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển tích cực.

Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn: Sự phục hồi của nền kinh tế nước ta còn chậm. Kết cấu hạ tầng của tỉnh vẫn còn yếu kém, nhất là giao thông, du lịch; nhu cầu đầu tư lớn nhưng nguồn vốn chưa đáp ứng; các chính sách thu hút đầu tư chậm được ban hành. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là lao động có tay nghề còn thiếu và yếu. Tình hình thời tiết, dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi, ở người diễn biến khó lường, còn tiềm ẩn nguy cơ; một số vấn đề bức xúc xã hội chưa được giải quyết. Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai vẫn còn gay gắt, phức tạp. UBND tỉnh đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014, cụ thể như sau:

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát nêu trên, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 phấn đấu đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (giá so sánh 2010) đạt 10,5%. Thu nhập bình quân đầu người 2.364USD (giá hiện hành). Cơ cấu kinh tế: khu vực I chiếm  38,3%, khu vực II chiếm 25%, khu vực III chiếm  36,7%.

- Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng  4,1%, sản lượng lúa đạt 4.604.170 tấn.

- Giá trị sản xuất thuỷ sản tăng 8,3%, sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đạt 612.850 tấn (sản lượng khai thác 445.000 tấn, nuôi trồng 167.850 tấn, trong đó: Tôm 52.000 tấn).

- Giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN (giá so sánh 2010) đạt 32.630 tỷ đồng, tăng 8,0%.

- Tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 15%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 670 triệu USD (thuỷ sản 175 triệu USD, nông sản 440 triệu USD, các mặt hàng khác 55 triệu USD); kim ngạch nhập khẩu 40 triệu USD. Tổng mức hàng hoá bán lẻ tăng 15%.

- Tổng vốn đầu tư trên địa bàn 32.500 tỷ đồng, tăng 15,43% năm 2013, trong đó: Vốn đầu tư do ngân sách địa phương quản lý 4.353,78 tỷ đồng.

- Tổng thu ngân sách trên địa bàn 4.988 tỷ đồng, tăng 5,7% so năm 2013, tổng chi ngân sách 8.896 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 1.999,28 tỷ đồng.

- Tỷ lệ xã trong đất liền có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hoá hoặc bê tông hoá đạt 98,06%.

- Giảm tỷ lệ sinh 0,2‰, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 10,13‰, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng 14,2%.

- Tỷ lệ huy động học sinh từ 6-14 tuổi đến trường đạt trên 96%.

- Phấn đấu đạt 65% số trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về y tế (theo chuẩn mới).

- Số lao động được giải quyết việc làm 33.000 người, trong đó: đào tạo nghề 25.000 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo 47%, trong đó: lao động qua đào tạo nghề 33,8%.

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,5% đến 1,8% (theo tiêu chí mới).

- Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế 65%.

- Tỷ lệ hộ sử dụng điện 98%.

- Tỷ lệ dân số sử dụng nước hợp vệ sinh 85%.

- Tỷ lệ che phủ rừng 11,9%.

- Công tác tuyển quân đạt 100% kế hoạch.

- Phấn đấu kiềm chế không để tai nạn giao thông xảy ra tăng so với năm 2013./.

Phòng tổng hợp VP.UBND tỉnh (thực hiện)

Số lần đọc: 1965
Theo kiengiang.gov.vn
Tin liên quan