27.03.2014
Kinh tế, xã hội quý I năm 2014 thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trên đà phục hồi; kinh tế vĩ mô trong nước đã có những dấu hiệu tốt, lạm phát ở mức kiểm soát, cải thiện trong cán cân đối ngoại; thị trường bất động sản có bước tiến triển...
Bên cạnh đó còn những yếu tố bất lợi cho nền kinh tế như: sự xung đột chính trị tại Ukraine, Thái Lan; khu vực EU cải cách tài chính- ngân hàng, tín dụng thắt chặt tác động đến các doanh nghiệp; mức tiêu thụ hàng hóa còn chậm, cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng sản phẩm, lượng hàng tồn kho tăng, tăng trưởng tín dụng và nợ xấu còn lo ngại, bất động sản đóng băng đang từng bước giải quyết; tình hình thời tiết, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp khó lường...Trước những thuận lợi và khó khăn trên, nền kinh tế trong nước những tháng đầu năm mặc dù có dấu hiệu hồi phục nhưng cũng còn những rủi ro tiềm ẩn, đòi hỏi cả hệ thống chính trị quyết tâm, nỗ lực cải cách mạnh mẽ, cần có sự điều chỉnh linh hoạt các chính sách để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2014. Trong tỉnh, tình hình kinh tế, xã hội mặc dù vẫn có khó khăn chung như cả nước, nhưng cơ bản là khả quan, kinh tế vẫn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng; thu ngân sách đạt khá, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ và đầu tư ổn định, các sản phẩm công nghiệp chủ lực tốc độ tăng khá; các dự án lớn đang tập trung đầu tư tạo điều kiện cho kinh tế tỉnh nhà phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện, dịch bệnh được kiểm soát...với kết quả đạt được trên thể hiện quyết tâm cao của các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh đã cố gắng nổ lực vượt qua những khó khăn phấn đấu đạt mục tiêu kinh tế- xã hội năm 2014 của tỉnh đề ra. Cụ thể trên từng lĩnh vực trong quý I /2014 đạt được như sau: 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) quý I năm 2014 theo (giá so sánh 2010) ước tính tăng 8,6% so với quý I năm 2013. Trong mức tăng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,45%, đóng góp cho tăng trưởng chung 1,11%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,31%, đóng góp cho tăng trưởng chung 1,43%; khu vực dịch vụ tăng 10,92%, đóng góp cho tăng trưởng chung 6,06%. Dự báo tăng trưởng kinh tế quý I năm nay đạt mức tăng thấp hơn cùng kỳ là do hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, giá cả không ổn (giá lúa tăng giảm bất thường, giá vật tư nông nghiệp tăng), nguyên liệu đầu vào khan hiếm, sản phẩm tiêu thụ hàng hóa còn gặp khó khăn về thị trường... ngành nông nghiệp quí I năm 2013 đạt tốc độ tăng 3,69%, quý I năm nay chỉ tăng 3,48% do sản lượng lúa quí I năm trước tăng 7.670 tấn thì quí I năm 2014 giảm 2.349 tấn; ngành thủy sản có mức tăng không đáng kể, quý I năm 2013 đạt tốc độ tăng 5,54% thì quí I năm nay đạt mức tăng 5,97%; ngành công nghiệp tốc độ có tăng hơn, quý I năm trước đạt tốc độ tăng 5,26% thì quí I năm nay đạt mức tăng 7,88%, các sản phẩm công nghiệp có tốc độ tăng khá: sản xuất xi măng, khai thác đá, cá hộp, nước đá, nước máy, đóng mới tàu... ngành dịch vụ có mức tăng thấp hơn so cùng kỳ nếu như quý I năm trước mức tăng ở khu vực này là 12,12% thì quí I năm nay chỉ tăng 10,92%, trong đó: kim ngạch xuất khẩu giảm gần 43% so cùng kỳ, ngành bán buôn bán lẻ chiếm tỷ trọng 40,92%, quý I năm trước mức tăng 10,95% thì quí I năm nay chỉ tăng 9,15%, ngành thông tin truyền thông quý I năm trước mức tăng 12,49% thì quí I năm nay giảm 3,44%, ... bên cạnh đó, do kinh tế còn khó khăn đã làm giảm cầu, giảm sức mua, từ đó làm ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của nền kinh tế trong quý I năm nay. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) quý I năm 2014
2. Tài chính, ngân hàng 2.1. Thu, chi ngân sách Nhà nước Tổng thu ngân sách trên địa bàn: Tháng 3 thực hiện thu ngân sách trên địa bàn ước tính 350,2 tỷ đồng, giảm 2,91% so tháng trước và tăng 15,44% so cùng kỳ năm 2013. Tổng thu quý I/2014 ước tính đạt 1.321,6 tỷ đồng, đạt 26,5% dự toán HĐND tỉnh giao và tăng 8,23% so quý I năm trước. Một số khoản thu quý I đạt dự toán cao như: thuế bảo vệ môi trường 51,1 tỷ đồng, đạt 29,55%; thuế XNK, TTĐB hàng nhập khẩu 1,5 tỷ đồng, đạt 39,21; thu phí, lệ phí 16 tỷ đồng, đạt 25,88%; thu từ doanh nghiệp nhà nước địa phương 50,8 tỷ đồng, đạt 25,42%. Bên cạnh đó một số khoản thu đạt còn thấp so dự toán như: thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước 1,2 tỷ đồng, đạt 5,33%; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 37 triệu đồng, đạt 1,85%; thu tiền sử dụng đất 118,1 tỷ đồng, đạt 14,77%; Tổng chi ngân sách địa phương: Tháng 3 ước tính chi ngân sách địa phương trên 649,9 tỷ đồng, tổng chi ngân sách quý I /2014 là 1.865,3 tỷ đồng, bằng 20,81% dự toán năm và giảm 1,27% so với quí I năm trước. Trong đó, chi thường xuyên trên 1.226,2 tỷ đồng, bằng 23,45% dự toán năm và giảm 0,85%; chi đầu tư phát triển hơn 194,9 tỷ đồng, bằng 9,75% dự toán năm và tăng 6,36% so với quý I năm trước. 2.2. Hoạt động Ngân hàng: Trong quí I/2014, thực hiện Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 15/01/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam các Tổ chức Tín dụng trên địa bàn tập trung huy động vốn tại địa phương, kết hợp với nguồn vốn điều hòa hệ thống để cho vay sản xuất kinh doanh, ưu tiên cho vay Nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa; Kiểm soát chất lượng tín dụng. Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, các tổ chức Tín dụng đã thực hiện cho vay mới với mức lãi suất hợp lý, điều chỉnh giảm lãi suất huy động, lãi suất cho vay; cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Ước tính quí I/2014, tổng nguồn vốn hoạt động ngân hàng trên địa bàn đạt 39.500 tỷ đồng, tăng 2,46% so đầu năm, tăng 10,61% so cùng kỳ năm 2013. Trong đó, huy động tại địa phương 19.900 tỷ đồng, giảm 0,23% so đầu năm và tăng 8,23% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 50,37% trong tổng nguồn vốn; nguồn vốn điều hòa và vốn vay ước đạt 13.300 tỷ đồng, tăng 7,87% so đầu năm và tăng 16,94% so cùng kỳ năm trước. Doanh số cho vay trong quí I/2014 ước đạt 15.215 tỷ đồng, tăng 3,58% so quí trước, bằng 96,24% so cùng kỳ. Tổng dư nợ cho vay ước tính 30.623 tỷ đồng, tăng 0,53% so đầu năm, tăng 9,92% so cùng kỳ năm 2013. Trong đó dư nợ ngắn hạn là 17.316 tỷ đồng, giảm 0,83% so đầu năm, tăng 3,44% so cùng kỳ năm trước; chiếm tỷ trọng 57,37% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay trung dài hạn 12.316 tỷ đồng, tăng 2,48% so đầu năm, tăng 20,9% so cùng kỳ. Dư nợ tổn thất ước 440 tỷ đồng, tỷ lệ nợ tổn thất là 1,44% trong tổng dư nợ, giảm 0,26% so cùng kỳ năm trước. Trong tổng dư nợ cho vay: Khu vực I chiếm 30,03%, số dư 9.196 tỷ đồng; Khu vực II chiếm 23,58%, số dư 7.220 tỷ đồng; Khu vực III chiếm 46,39%, số dư 14.206 tỷ đồng. Trong tổng số doanh số và dư nợ cho vay , cho vay sản xuất kinh doanh chiếm trên 85%. 3. Đầu tư và xây dựng Trong quý I năm 2014, tiến độ thi công các dự án, công trình mặc dù bị ảnh hưởng thời gian nghỉ Tết kéo dài, nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của các ngành, các cấp trong tỉnh, các chủ đầu tư, các đơn vị xây lắp tập trung huy động mọi nguồn lực đầu tư cho các công trình trọng điểm, thiết thực như: khu công nghiệp Thạnh Lộc, các trục đường giao thông chính huyện Phú Quốc, các công trình kè đê ngăn mặn và hạ tầng kinh tế ven biển, chương trình phát triển KT-XH nông nghiệp nông thôn. Dự kiến trong quý I vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn đạt 8.120 tỷ đồng, trong đó: Vốn Ngân sách chiếm tỷ trọng 43%; vốn ngoài Nhà nước chiếm 55,5%. Vốn tập trung chủ yếu trong lĩnh vực XDCB chiếm 68,18%, trong đó nguồn vốn cho phát triển hạ tầng giao thông đảo Phú Quốc 249 tỷ đồng... ngoài ra, còn khởi công xây dựng mới 4 nhà máy lớn tại khu công nghiệp Thạnh Lộc: Nhà máy gỗ MDF VRG Kiên Giang, Nhà máy bia Sài Gòn KG, Nhà máy may Vinatex KG và Nhà máy giày TBS KG, đồng thời tiếp tục đẩy nhanh tiến độ những công trình chuyển tiếp năm 2013 và những năm trước sớm đưa vào hoạt động. Dự kiến vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trong quí I đạt 940 tỷ đồng, bằng 23,98% kế hoạch năm, tăng 7,14% so cùng kỳ năm 2013. 4. Sản xuất công nghiệp Sản xuất công nghiệp mặc dù còn đối mặt với những khó khăn về thị trường tiêu thụ, nguyên liệu đầu vào, cạnh tranh về chất lượng và giá thành sản phẩm… nhưng một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như: ngành công nghiệp chế biến thực phẩm như: cá hộp, sản phẩm thủy sản sơ chế; ngành sản xuất xi măng vẫn phát triển ổn định, tốc độ sản xuất và giá trị sản xuất so với quý I năm trước vẫn tăng khá đạt trên 8%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): Chỉ số IIP trong tháng 3 ước tính toàn ngành công nghiệp tăng 32,49% so tháng trước và tăng 3,48% so cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành tăng cao so tháng trước là: xay xát và sản xuất bột thô tăng 49,14%; kế đến sản xuất xi măng tăng 38,91%; chế biến, bảo quản thủy sản tăng 33,58%; các ngành còn lại tăng thấp dưới mức tăng chung. Quý I/2014, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 9,66% so quý I năm 2013, trong đó: tăng cao nhất là ngành khai khoáng tăng 31,74%; kế đến là ngành chế biến, bảo quản thủy sản tăng 24,17%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 14,73%; ngành sản xuất xi măng tăng 11,39%; các ngành còn lại tăng dưới mức tăng chung toàn ngành. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): Tháng ba ước tính gần 2.357,7 tỷ đồng, tăng 13,51% so tháng trước và tăng 0,61% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2.248,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,37%, tăng 14,15% so tháng trước và tăng 0,52% so với cùng kỳ năm trước; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 66,1 tỷ đồng, tăng 1,2% so tháng trước và tăng 9,18% so với cùng kỳ; ngành khai khoáng đạt 31,7 tỷ đồng, tăng 2,81% so tháng trước và giảm 12,46% so với cùng kỳ năm trước. Quý I/2014, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính 6.505,8 tỷ đồng, đạt 19,94% kế hoạch và tăng 8,03% so với quý I năm 2013, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6.181,5 tỷ đồng, tăng 8,18%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 196,5 tỷ đồng, tăng 5,04% so với cùng kỳ; ngảnh khai khoáng đạt 94,2 tỷ đồng, tăng 4,47% …. Một số sản phẩm công nghiệp trong quý I có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: Xi măng Trung ương đạt 155,4 ngàn tấn, tăng 46,97%; xi măng Địa phương đạt 175,2 ngàn tấn, tăng 10,82%; cá hộp 2,3 ngàn tấn, tăng 10,46%; bột cá 11,5 ngàn tấn, tăng 16,97%; nước máy 7,1 triệu m3 tăng 14,73%. Còn lại một số sản phẩm có mức sản xuất thấp, giảm so quý I năm trước như: tôm đông giảm 18,95%; cá đông giảm 65,84%; xay xát gạo (khu vực Nhà nước) giảm 41,09%; đường các loại giảm 29,29%; nước đá (Nhà nước) giảm 27,28%; trang in (Nhà nước) giảm 4,49%. 5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản quý I năm 2014 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 6.792,5 tỷ đồng, tăng 4,91% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, nông nghiệp đạt 2.817,1 tỷ đồng, tăng 3,48%; lâm nghiệp đạt 53,8 tỷ đồng, tăng 4,4%; thủy sản 3.921,5 tỷ đồng, tăng 5,97%. 5.1. Nông nghiệp Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh đã thu hoạch dứt điểm lúa vụ Mùa và gần 50% diện tích vụ Đông xuân. Diện tích gieo sạ lúa vụ Mùa và Đông xuân đạt 368.921 ha, bằng 47,94% diện tích gieo sạ cả năm theo kế hoạch và tăng 2.457 ha (tăng 0,67%) so với hai vụ này của cùng kỳ năm trước, năng suất thu hoạch lúa mùa và đông xuân ước tính 66,0 tạ/ha (tăng 1,63 tạ/ha) và sản lượng đạt 2.433.638 tấn bằng 52,86% kế hoạch cả năm, và tăng 74.620 tấn so với hai vụ này năm trước.- Vụ Mùa: Chính thức diện tích gieo sạ được 63.044 ha, đạt 96,25% so kế hoạch năm (giảm 2.456 ha), so với vụ mùa năm trước giảm 2.814 ha (giảm 4,27%); Năng suất bình quân đạt 44,46 tạ/ha, so vụ mùa năm trước tăng 1,55 tạ/ha (tăng 3,6%); Sản lượng đạt 280.264 tấn, bằng 95,09% kế hoạch (giảm 14.486 tấn so KH) và giảm 2.349 tấn (giảm 0,83%) so với vụ mùa năm trước.Diện tích gieo sạ vụ Mùa năm nay giảm nguyên nhân do một số hộ nông dân ở các huyện: Gò Quao, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận không trồng lúa do hiệu quả thấp mà chuyển sang trồng cây công nghiệp và màu cũng như nuôi thủy sản; một số ít diện tích lúa ven biển huyện An Minh bị nhiểm mặn không gieo sạ được. Tuy nhiên vụ mùa năm nay gặp thuận lợi về thời tiết khí hậu, kết hợp với nông dân chọn trồng giống lúa ngắn ngày cho năng suất cao như giống OM 2517, OM 6976, giống ST5, giống F lai... làm cho năng suất vụ mùa năm nay mặc dù chưa đạt kế hoạch, nhưng tăng trên 1,5 tạ/ha so vụ mùa năm trước. - Vụ đông xuân: Diện tích gieo trồng được 305.877 ha, vượt 1,62% kế hoạch năm (tăng 4.877 ha so KH) và tăng 5.271 ha (tăng 1,75%) so với vụ đông xuân năm 2013. Năng suất bình quân (sơ bộ ước tính) đạt 70,4 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha so với vụ Đông xuân năm 2013. Tính đến 15/3 diện tích đã thu hoạch đạt 150.000 ha (bằng 49,04% diện tích gieo trồng). Diện tích gieo trồng vụ Đông xuân năm nay tăng là do có một số địa phương chuyển đổi từ diện tích trồng rừng tràm, cải tạo vườn tạp và chuyển đất nuôi tôm kém hiệu quả sang trồng lúa, ngoài ra một số huyện như: Giang Thành, U Minh Thượng.. chuyển diện tích gieo trồng vụ Xuân hè sang làm vụ Đông xuân . Từ đầu vụ đến nay có 29.678 ha bị nhiễm sâu bệnh, bằng 84,99% diện tích nhiễm sâu bệnh cùng kỳ, chủ yếu một số bệnh như: Lem lép hạt (ở huyện Giồng riềng, Gò Quao, Châu hành, Kiên Lương, Giang Thành ), Đạo ôn cổ bông (ở Giồng riềng, Châu thành, Kiên lương) , cháy lá (ở Rạch Giá, Gò Quao)… Mặc dù giá lúa trong thời gian gần đây có lúc giảm, nhưng hiện nay nông dân phấn khởi khi giá lúa có chiều hướng nhích lên, đối với giống lúa IR 50404 giá từ 4.300đ- 4.350đ/kg tư thương đang mua nhiều nên giống lúa này tăng từ 100 đến 150đ/kg so với mấy ngày trước. Còn trên 50% diện tích lúa Đông Xuân chưa thu hoạch, trong thời gian tới nếu thực hiện quyết định của Chính phủ thu mua tạm trử 2 triệu tấn lúa vụ Đông Xuân ở vùng ĐBSCL hy vọng giá lúa vụ đông xuân năm nay được ổn định hơn. - Vụ hè thu: Diện tích cày xới được 23.800 ha, gieo sạ sớm được trên 4.000 ha, chủ yếu ở huyện Tân Hiệp, Giồng Riềng, Châu Thành và Giang Thành. Dự báo diện tích vụ hè thu năm nay tăng từ 15.000 ha đến 20.000 ha, do sản xuất vụ Xuân hè trễ nên nông dân chuyển sang gieo sạ vụ hè thu sớm. - Cây rau màu: Gieo trồng các loại rau màu vụ đông xuân năm nay được nông dân duy trì, tranh thủ lúc nông nhàn để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống. Tính đến trung tuần tháng ba gieo trồng được: khoai lang 597 ha, bằng 87,15% so cùng kỳ năm trước; dưa hấu 805 ha, bằng 101%; rau đậu 4.200 ha, bằng 101,42%. - Chăn nuôi: Những tháng đầu năm, dịch cúm gia cầm diễn biến hết sức phức tạp, xảy ra trên nhiều địa phương tỉnh, thành phố, trong đó tỉnh ta vào tháng một đã phát sinh một ổ dịch ở Trại giống nông, lâm, ngư nghiệp huyện Hòn Đất, tiếp tục mới đây ngày 17/3/2014, lại xảy ra một ổ dịch cúm H5N1 ở ấp Mỹ Bình, xã Mỹ Lâm, Hòn Đất các ngành chức năng đang tổ chức tiêu huỷ trên 400 con gà, vịt xiêm, ngoài ra một số tỉnh giáp ranh như Cà Mau, Sóc Trăng, TP Cần Thơ đã có ổ dịch. UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng chủ động triển khai phương án phòng chống dịch chặt chẽ, tích cực kiểm soát việc vận chuyển, mua bán, giết mổ, tiêm phòng vaccin cho đàn gia súc, gia cầm nên đã kiềm chế được dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Việc phát triển đàn gia súc, gia cầm của tỉnh hiện nay vẫn còn khó khăn, người dân chưa yên tâm đầu tư, trước những lo ngại về dịch bệnh đã và đang bùng phát, kết hợp với giá sản phẩm chăn nuôi không ổn định khuynh hướng giảm nhất là lúc dịch bệnh xảy ra. Trong thời gian tới, để phát triển nhanh số lượng đàn gia súc, gia cầm trong tỉnh một cách bền vững, nông dân cần phải chuyển đổi từ mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi quy mô tập trung, các ngành các cấp có phương án hỗ trợ cho người chăn nuôi đầu vào kể cả đầu ra, từ khâu giống, thức ăn, kỹ thuật, thú y đến khâu tiêu thụ sản phẩm. 5.2. Lâm nghiệp: Tháng 3, thời tiết khô hanh, nắng nóng, gió mạnh rất dễ xảy ra cháy rừng nếu các ngành chức năng chủ quan, không bảo vệ nghiêm ngặt. Đối với Vườn quốc gia U Minh Thượng nguồn nước trữ khá tốt nên giảm lo ngại cháy, nhưng đối với Vườn quốc gia Phú Quốc hơn 3.000 ha rừng bị khô hạn, do rừng nằm ở khu vực núi không giữ được nước nên nguy cơ cháy cao. Ban Chỉ huy Phòng cháy chữa cháy huyện Phú Quốc đã nâng mức cảnh báo cháy lên cấp 5, cấp cực kỳ nguy hiểm tại nhiều khu vực rừng trên đảo Phú Quốc, đồng thời thành lập các tổ, đội phòng chống cháy rừng, chuẩn bị xe chuyên dùng, phương tiện dập lửa, kiểm tra liên tục nguồn nước... để đối phó khi xuất hiện cháy rừng. Trong quý I ước tính gỗ khai thác (tính cả tràm) được 16.520 m3, tăng 1,97% so cùng kỳ năm trước. 5.3. Thủy sản Giá trị sản xuất thủy sản (theo giá so sánh 2010): Tháng 3 ước tính đạt 1.356,9 tỷ đồng, tăng 6,95% so với tháng trước và tăng 11,38% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: giá trị khai thác gần 976,9 tỷ đồng, tăng 6,92% so tháng trước và tăng 8,26% so cùng kỳ và giá trị nuôi trồng 379,9 tỷ đồng, tăng 7,02% so tháng trước và tăng 20,28% so cùng kỳ năm trước. Ước tính trong quý I/2014 giá trị sản xuất cả khai thác và nuôi trồng được 3.921,59 tỷ đồng, đạt 19,15% so kế hoạch năm và tăng 5,97% so quý I/2013, trong đó: khai thác được 2.786,1 tỷ đồng, đạt 24,48% so kế hoạch, tăng 5,65% so cùng kỳ và nuôi trồng được 1.135,4 tỷ đồng, đạt 12,48% kế hoạch, tăng 6,76% quý I năm 2013. Sản lượng khai thác: Tháng 3 ước tính được 38.128 tấn thủy hải sản các loại, tăng 3,36% so tháng trước và tăng 13,53% so cùng kỳ năm trước, trong đó: cá các loại 25.844 tấn, tăng 1,59% so tháng trước và tăng 22% so cùng kỳ (tăng 4.660 tấn); tôm các loại 3.398 tấn, tăng 9,37% so tháng trước và giảm 8,78% so cùng kỳ (giảm 327 tấn). Trong quý I/2014 sản lượng khai thác ước tính 112.643 tấn, đạt 25,31% kế hoạch năm và tăng 13,05% so với quý I năm 2013, trong đó: cá các loại 76.676 tấn, đạt 25,73% kế hoạch và tăng 18,03% (tăng 11.714 tấn); tôm các loại 9.499 tấn, đạt 23,17% kế hoạch và giảm 11,2% (giảm 1.197 tấn). Sản lượng nuôi trồng: Tháng 3 ước đạt 10.283 tấn thủy sản các loại, tăng 15,96% so tháng trước và tăng 33,25% so cùng kỳ năm trước, trong đó: cá nuôi các loại đạt 4.195 tấn, giảm 7,5% so tháng trước và giảm 8,27% so cùng kỳ năm trước; tôm các loại đạt 1.435 tấn, giảm 1,37% so tháng trước và tăng 16,95% so cùng kỳ (tôm thẻ chân trắng đạt 729 tấn, tăng 8% so cùng kỳ); thủy sản khác 4.653 tấn, tăng 2,4 lần so cùng kỳ (trong đó: sò các loại 3.125 tấn, tăng 2,4 lần, hến 1.255 tấn, tăng 4,7 lần). Quý I/2014 sản lượng nuôi trồng ước tính 29.953 tấn, đạt 17,85% kế hoạch năm và tăng 8% so quý I năm trước, bao gồm: cá nuôi các loại 13.988 tấn, đạt 24,66% kế hoạch năm và tăng 3,28%; tôm các loại 4.369 tấn, đạt 8,4% kế hoạch năm và tăng 8,47% (trong đó: tôm thẻ chân trắng 2.038 tấn, đạt 8,94% kế hoạch và tăng 6,31%); thủy sản khác 11.596 tấn, đạt 19,61% kế hoạch năm, tăng 14,12% Tình hình khai thác thủy sản quý I năm nay khá thuận lợi, giá sản phẩm đầu ra ổn định mức cao, ngư dân thấy có lãi tranh thủ bám biển, sản lượng tăng 13,05% và đạt kế hoạch khá, nhưng xét về giá trị khai thác chỉ tăng 5,65% do sản phẩm tôm có giá trị cao trong quý I khai thác giảm 1.197 tấn. Nguyên nhân do ngư trường khai thác ngày một cạn dần, ngư dân đang có xu hướng đầu tư, nâng cấp trang thiết bị phương tiện mở rộng ngư trường đánh bắt xa bờ ra biển đông, đây là tín hiệu đáng phấn khởi cho ngành thủy sản, là điều kiện tăng thu nhập ngư dân trong thời gian tới. Nuôi trồng trong quý I có thuận lợi, nuôi thả tôm được bà con nông dân tuân thủ lịch thời vụ, lựa chọn con giống theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp, kết quả khả quan hơn. Sản lượng tôm nuôi tăng, tuy nhiên so kế hoạch vẫn còn rất thấp, ngoài ra lượng thủy sản khác như: sò, hến cũng tăng, khi huyện An Biên đã tìm được đầu ra đang đầu tư thả nuôi vào mùa thu hoạch. Sản lượng cá nuôi giảm, chỉ bằng 91,73% so cùng kỳ, do người dân giảm nuôi vì chi phí thức ăn tăng lại khó tiêu thụ và xảy ra dịch bệnh trên cá lồng tại huyện Kiên Hải làm chết hàng chục ngàn con cá bớp và cá mú gây thiệt hại khoảng 3 tỷ đồng. Tính đến 10/3/2014, tổng diện tích thả nuôi tôm được 77.595 ha (gồm 76.970 ha nuôi tôm sú và 625 ha tôm thẻ chân trắng), bằng 87,18% kế hoạch năm và tăng 5.306 ha (tăng 4,75%) so với cùng kỳ năm 2013; trong đó: nuôi tôm công nghiệp 676 ha/.2400 ha đạt 28,2% so KH năm, chỉ bằng 47,5% diện tích thả nuôi của năm 2013 . Diện tích thả nuôi tôm ở các huyện như: An Minh 39.234 ha; Vĩnh Thuận 19.223 ha; An Biên 8.429 ha; U Minh Thượng 4.030 ha; Gò Quao 1.906 ha; Kiên Lương 2.680 ha; Giang Thành 1.265 ha; Hà Tiên 318 ha. Vào thời điểm này năm trước trên 2.600 ha diện tích tôm bị nhiễm bệnh ở hai huyện An Biên và An Minh, rút kinh nghiệm năm nay các địa phương như huyện An Minh, Kiên Lương phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra chứng nhận kiểm dịch tôm sú giống trước khi đưa vào thả nuôi, hiện ở các địa phương trong tỉnh chưa thấy dịch bệnh xuất hiện trên tôm nuôi. 6. Thương mại, dịch vụ và giá cả 6.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dung: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 ước đạt 4.582,9 tỷ đồng, tăng 1,64% so tháng trước và tăng 21,42% so cùng kỳ năm trước. Quý I ước đạt 14.053,8 tỷ đồng, bằng 25,44% kế hoạch năm và tăng 17,2% so với quý I năm trước và nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quí I/2014 chỉ tăng 12%. Trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước đạt 200,7 tỷ đồng, giảm 40,75% so cùng kỳ năm trước; kinh tế tập thể đạt 14,62 tỷ đồng, tăng 35,14%; kinh tế cá thể đạt 8.629,8 tỷ đồng, tăng 6,84% và kinh tế tư nhân đạt 5.208,5 tỷ đồng, tăng 46,15%. Phân theo ngành kinh tế thì kinh doanh thương nghiệp đạt 10.763,9, chiếm 76,59% và tăng 5,01%; khách sạn, nhà hàng đạt 2.569,2 tỷ đồng, chiếm 18,28% và tăng 85,8%; du lịch lữ hành đạt 12,9 tỷ đồng, chiếm 0,1% và tăng 69,11%; dịch vụ đạt 707,5 tỷ đồng, chiếm 5,03% và tăng 2 lần so cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ quí I năm nay tăng không cao bằng mức tăng của những năm gần đây, phản ánh sức mua đang có xu hướng tăng chậm lại do kinh tế vẫn đang còn khó khăn. Hàng hóa trên thị trường dồi dào, rất đa dạng, phong phú đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng tổng cầu tăng không nhiều. Sở Công thương đã triển khai thực hiện tốt chương trình bình ổn giá và đưa hàng Việt về nông thôn, các huyện đảo, vùng sâu, vùng xa trong dịp lễ, tết nên không còn tình trạng găm hàng, sốt giá, như các năm trước đây, các doanh nghiệp chuẩn bị nguồn hàng cung cấp dồi dào, da dạng, phong phú phục vụ nhu cầu của nhân dân trong dịp lễ, tết vừa qua. Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường thực hiện thường xuyên; trong dịp Lễ, Tết được tăng cường, UBND tỉnh đã thành lập Đoàn kiểm tra về bình ổn thị trường trước, trong và sau tết, thực hiện kiểm tra 263 cơ sở, phát hiện 7 cơ sở vi phạm, trong đó 5 cơ sở nhắc nhở và phạt 2 cơ sở, thu nộp ngân sách trên 700 triệu đồng. 6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng ba ước tính đạt 33,7 triệu USD, tăng 44,39% so với tháng trước và giảm 47,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó: hàng nông sản 23,3 triệu USD, tăng 46,42% so tháng trước, giảm 52,7% so cùng kỳ năm trước; hàng thủy sản 9,6 triệu USD, tăng 41,85% so tháng trước và giảm 13,76%. Tính chung quý I, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 75,5 triệu USD, bằng 11,28% kế hoạch năm và giảm 42,8% so với quý I năm trước. Trong đó, hàng nông sản đạt 45,7 triệu USD, bằng 10,4% kế hoạch năm và giảm 52,4%; hàng thủy sản đạt 27,9 triệu USD, bằng 15,21% kế hoạch năm và giảm 9,73%; hàng hóa khác đạt 1,8 triệu USD, bằng 3,43% kế hoạch năm và giảm 63,96% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu quý I/2014 đạt khá so cùng kỳ năm trước như: cá cơm sấy đạt 116 tấn, tăng 31,82%; thủy sản đông khác đạt 2.470 tấn, tăng 21,44%. Mặt hàng gạo đạt thấp 100,9 ngàn tấn, giảm 56,9% (giảm 133 ngàn tấn) so quý I năm trước. Trong tháng ba dự kiến xuất khẩu có khả quan hơn so 2 tháng đầu năm, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi hầu hết các mặt hàng xuất khẩu trong quý I năm nay đạt kế hoạch thấp và giảm nhiều hơn quý I năm trước, tổng kim ngạch trong tháng chỉ gần bằng một nữa cùng kỳ (52,93%), cả quý I chỉ bằng 57,18% so cùng kỳ năm trước và đạt kế hoạch thấp (11,28%). Các mặt hàng xuất chủ lực của tỉnh như gạo, thủy sản đông lạnh giảm mạnh do kinh tế thế giới còn khó khăn, nhu cầu nhập khẩu một số nước sụt giảm, những rào cản kỹ thuật nhập khẩu chèn ép một số nước xuất với nền kỹ thuật chưa đáp ứng, sự cạnh tranh về giá thành sản phẩm...điều này đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu cần quan tâm kiểm tra nghiêm ngặt tiêu chuẩn chất lượng nguyên liệu cung cấp cho mặt hàng xuất khẩu, ổn định nguồn nguyên liệu, tiết giảm các chi phí và đẩy mạnh xúc tiến thương mại tìm kiếm thị trường xuất khẩu . Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng ba ước tính đạt 2,3 triệu USD, giảm 9,91% so với tháng trước, tăng 39,63% so cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I trị giá nhập ước được 7,4 triệu USD, đạt 18,59% kế hoạch năm và giảm 2,63% so cùng kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu dùng cho sản xuất như: giấy krapt 250 tấn, giảm 61,72% so cùng kỳ năm trước; hạt nhựa 230 tấn, giảm 82,6%; thạch cao 19,3 ngàn tấn, giảm 4,95% 6.3 Vận tải Nhìn chung hoạt động kinh doanh vận tải đã kết hợp với các ngành có liên quan phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển hàng hóa, hành khách nhất là trong dịp lễ, tết; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các phương tiện vận tải để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh vận tải hành khách và hàng hóa. Tháng ba tình hình vận tải hàng hóa và hành khách tương đối ổn định, sản lượng vận tải hành khách và hàng hóa tăng nhẹ so với tháng trước. Vận tải hành khách: Tháng 3 vận tải hành khách ước tính 4,8 triệu lượt khách, tăng 2,02% so tháng trước và tăng 13,33% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 248,8 triệu HK.km, tăng 2,44% so tháng trước và tăng 12,81% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I vận tải hành khách ước tính được 14,5 triệu lượt khách, đạt 25,26% kế hoạch và tăng 4,45% so quý I năm trước; luân chuyển 744,6 triệu HK.km, đạt 23,63% kế hoạch và tăng 4,44% so quý I năm trước. Bao gồm: Vận tải hành khách đường bộ 11,6 triệu lượt khách, tăng 4,6% so quý I năm trước và luân chuyển 582,3 triệu lượt khách.km, tăng 5,11%; Vận tải hành khách đường sông 2,4 triệu lượt khách, tăng 4,88% và luân chuyển 126,2 triệu lượt khách.km, tăng 6,03%; Vận tải hành khách đường biển 0,39 triệu lượt khách, giảm 2,22% và luân chuyển 36,1 triệu lượt khách.km, giảm 9,66% nguyên nhân là do số lượng phương tiện vận tải HK và HH giảm so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa: Tháng 3 vận tải hàng hóa ước tính 676 ngàn tấn, tăng 2,42% so tháng trước và tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 92,2 triệu tấn.km, tăng 3,3% so tháng trước và tăng 6,56% so cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I vận tải hàng hóa ước tính 2 triệu tấn, đạt 24,29% kế hoạch và tăng 1,34% so quý I năm trước; luân chuyển 278,2 triệu tấn.km, đạt 24,19% kế hoạch và tăng 1,23% so quý I năm trước. Bao gồm: Vận tải hàng hóa đường bộ 633 ngàn tấn, tăng 4,28% và luân chuyển 88,4 triệu tấn.km, tăng 4,15% so quý I năm trước; Vận tải hàng hóa đường sông 843 ngàn tấn, tăng 3,82% và luân chuyển 105,4 triệu tấn.km, tăng 3,64%; Vận tải hàng hóa đường biển 572 ngàn tấn, giảm 4,98% và luân chuyển 84,3 triệu tấn.km, giảm 4,35% so quý I năm trước. 6.4. Bưu chính - Viễn thông Trong quý I/2013 ngành Bưu chính, Viễn thông vẫn duy trì và phát triển, mạng thông tin viễn thông được thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu thông tin liên lạc, các doanh nghiệp kinh doanh viễn thông luôn duy trì các chương trình khuyến mãi. Ước tính tổng doanh thu bưu chính và viễn thông trong quý I đạt 404,3 tỷ đồng, đạt 25,92% kế hoạch, bằng 90,92% so cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu viễn thông ước tính 390 tỷ đồng. Số điện thoại di động phát triển mới giảm mạnh chỉ đạt 12.625 thuê bao, bằng 15,3% so cùng kỳ năm trước, số thuê bao cố định âm 250 thuê bao. Số thuê bao điện thoại hiện có trên mạng là 1.846.052 thuê bao. Số thuê bao internet phát triển mới trong quí I đạt 1.391, bằng 43,76% cùng kỳ, nâng tổng thuê bao internet hiện có trên mạng được 66.391 thuê đạt 96,9% kế hoạch và tăng 2,19% so cùng kỳ. 6.5. Du lịch Tổng lượt khách du lịch trong tháng 3 ước tính đạt 280,8 ngàn lượt khách, bằng 59,95% so tháng trước, trong đó: khách đến các khu vui chơi, điểm du lịch là 167,2 ngàn lượt người và 113,6 ngàn lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch. Khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch giảm 19% so tháng trước và tăng 14,67% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: khách đến các cơ sở lưu trú du lịch phục vụ gần 105,5 ngàn lượt khách, giảm 20,06% so tháng trước và khách du lịch theo tour 8,1 lượt khách, giảm 2,17%. Tính chung quý I, tổng số khách đến các điểm vui chơi và cơ sở kinh doanh du lịch được 913,7 ngàn lượt khách, đạt 22,02% kế hoạch năm và giảm gần 12,6% so quý I năm trước, trong đó: số khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch được 352,9 ngàn lượt khách, đạt 27,15% kế hoạch và tăng 17,72% so quý I năm trước. Trong số khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch, thì khách quốc tế đạt 67,8 ngàn lượt khách, tăng 20,21%; khách đến các cơ sở lưu trú du lịch phục vụ gần 329 ngàn lượt khách, tăng 18,45% và khách du lịch theo tour 23,9 ngàn lượt khách, tăng 8,51% Năm nay số khách đến cơ sở kinh doanh du lịch trong quý I đạt khá cao so kế hoạch và so quý I năm trước, nhất là khách quốc tế tăng trên 20% đây là tín hiệu tốt cho hoạt động kinh doanh du lịch, bên cạnh đó, điện lưới quốc gia ra huyện đảo Phú Quốc vừa hoàn thành, kết hợp Cảng hàng không Quốc tế Phú Quốc đã đi vào hoạt động, đặc biệt là chính sách miễn thị thực trong vòng 30 ngày cho khách quốc tế, nên hoạt động du lịch ở Phú Quốc đầy hứa hẹn ,với số khách du lịch đến Phú Quốc ngày một tăng. Tuy nhiên, với hệ thống hạ tầng cơ sở và dịch vụ cho du lịch còn yếu kém, sản phẩm du lịch đơn điệu, thiếu tính chuyên nghiệp, thêm vào đó, giá phòng trên đảo cũng cao hơn một số điểm du lịch khác khoảng 30%, khiến số ngày khách du lịch đi theo tour vẫn đạt thấp so kế hoạch và giảm so cùng kỳ, điều này đặt ra cho ngành kinh doanh du lịch hết sức quan tâm đến các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch nhằm đáp ứng tốt nhu cầu khách đến tham quan lưu lại nghỉ dưỡng tại các khu du lịch trong tỉnh.
6.6. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng chung trong tháng 3 giảm 0,73% so với tháng trước, đây là tháng đầu tiên trong năm có chỉ số giá tiêu dùng giảm, nguyên nhân do nhu cầu tiêu dùng tháng 3 giảm mạnh so với tháng trước có Tết và nguồn cung hàng hóa trên thị trường dồi dào làm giá các mặt hàng nhất là lương thực và thực phẩm giảm mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng có 3 nhóm hàng giảm là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có mức giảm nhiều nhất là -1,65% (trong đó: lương thực giảm 1,21%; thực phẩm giảm 2,57%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,98%); kế đến nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm -0,85% (giá gas đốt bình quân giảm 30.000đ/bình từ ngày 1/3/2014) và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Các nhóm khác còn lại tăng nhẹ như: nhóm giáo dục tăng 0,03%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,13%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%; nhóm may mặc, giày dép, mũ nón tăng 0,01%; nhóm thiết bị đồ dùng gia đình tăng 0,39%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,45%; nhóm giao thông tăng 0,46% (ảnh hưởng từ điều chỉnh tăng giá xăng dầu ngày 21/2/2014); nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,62% (do điều chỉnh tăng mức phí vệ sinh từ ngày 1/3/2014). Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 so với tháng 12/2013 (sau 3 tháng) tăng 0,83%; so với cùng kỳ năm trước (sau một năm) chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,83%, trong đó nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao nhất 6,28%; kế đến là hàng ăn uống ngoài gia đình tăng 6,07%; nhóm giao thông tăng 5,15%... Chỉ số giá vàng tháng 3 (tính đến 15/3/2014) so tháng trước tăng 5% (tăng 162.000đ/chỉ), bình quân giá bán trong tháng là 3.405.000đ/chỉ. Chỉ số giá vàng tháng 3 so với tháng 12/2013 tăng 5,36% và so với cùng kỳ (tháng 3/2013) giảm 16,81%. Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 3 tương đương so với tháng trước. Đến thời điểm điều tra ngày 15/3/2014 tại Ngân hàng Ngoại Thương bán ra là 21.120 đ/USD, thị trường tự do bán 21.190 đ/USD. Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 3/2014 so với tháng 12/2013 (sau 3 tháng) giảm 0,19% và so với tháng 3/2013 (sau 12 tháng) tăng 0,73%. 7. MỘT SỐ TÌNH HÌNH XÃ HỘI 7.1. Tình hình đời sống dân cư: Trong quý I, đời sống của các tầng lớp dân cư toàn tỉnh tương đối ổn định. Chỉ số giá tiêu sau 3 tháng chỉ tăng 0,83%, ít ảnh hưởng đến thu nhập đời sống của các tầng lớp nhân dân. Đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, trong quý I có phần cải thiện hơn khi tiếp tục thực hiện mức lương cơ bản mới 1.150.000đ/tháng, trong khi chỉ số giá tiêu dùng tăng rất thấp, ngoài ra đối với khu vực hành chính sự nghiệp còn có chi khen thưởng cuối năm và thưởng Tết Nguyên đán. Đời sống nông dân được cải thiện hơn, giá tiêu dùng tăng không đáng kể, nông dân tích cực duy trì sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, giá lúa có nhích lên và tôm nuôi giá cao, dịch bệnh ít xảy ra nên giảm được chi phí sản xuất. 7.2. Lao động, việc làm: Trong quý I năm 2014, giải quyết việc làm cho 8.970 lượt người, trong đó giải quyết việc làm trong tỉnh: 4.300 lượt người; ngoài tỉnh: 4.664 lượt người, xuất khẩu lao động 6 người (01 Nhật Bản, 04 Hàn Quốc, 01 Đài Loan); các trường, trung tâm, cơ sở tổ chức dạy nghề cho 2.299 người, trong đó sơ cấp nghề 1.435 người và dạy nghề dưới 3 tháng 864 người 7.3. Giáo dục: Tính đến giữa năm học 2013-2014 toàn tỉnh có 300 trường tiểu học, giảm 1 trường so cùng kỳ năm trước; 193 trường trung học cơ sở, không tăng giảm và 23 trường phổ thông trung học, giảm 2 trường. Tổng số giáo viên 16.616 người, giảm 0,75% (giảm 125 giáo viên) so năm học trước, trong đó 9.115 giáo viên tiểu học, tăng 1,26% (tăng 113 giáo viên); 5.528 giáo viên trung học cơ sở, giảm 3,08% (giảm 170 giáo viên) và 2.143 giáo viên trung học phổ thông, tăng 3,08% (giảm 68 giáo viên). Tổng số học sinh phổ thông là 287.124 HS tăng 4.611 HS. Trong đó, tiểu học 160.748 HS, tăng 1.241 HS; trung học cơ sở 92.321 HS, tăng 4.117 HS; trung học phổ thông 34.055 HS, giảm 747 HS. 7.4. Văn hóa, Thể thao: Trong quí I, ngành Văn hóa-Thể thao và Du lịch tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, mang lại không khí sôi nổi, phấn khởi và thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân như Lễ hội đón Giao thừa Tết Nguyên đán; các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Ngọ 2014; Lễ hội kỷ niệm 52 năm ngày hy sinh của AHLLVTND Phan Thị Ràng; Lễ hội Năm Văn hóa Du lịch thị xã Hà Tiên lần thứ VI và kỷ niệm 278 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các; Lễ thông xe 02 cây cầu Cái Lớn-Cái Bé và khởi công một số dự án tại Khu Công nghiệp Thạnh Lộc; khai mạc Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Kiên Giang lần thứ VII; tham gia Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ VII; tham gia Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ nhất tại tỉnh Bạc Liêu... Cụ thể như Bảo tàng tỉnh trưng bày phục vụ 1.797 lượt khách đến tham quan, trong đó có 50 lượt khách nước ngoài và tổ chức 01 cuộc trưng bày lưu động tại huyện Hòn Đất có trên 2.000 lượt người xem; Hai đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp biểu diễn được 25 suất, phục vụ 30.000 lượt người xem; trong đó có 06 suất phục vụ đoàn khách Campuchia đến thăm, chúc Tết tỉnh Kiên Giang, thu hút 6.000 lượt đại biểu và người xem; Tổ chức chiếu phim tại rạp Thắng Lợi được 207 suất, phục vụ 13.923 lượt người xem; Thư viện tỉnh bổ sung 721 bản sách và 55 loại báo, tạp chí mới, đưa 6.490 lượt sách, báo, tạp chí phục vụ 2.829 lượt độc giả; Trung tâm Văn hóa tỉnh phối hợp tổ chức 13 chương trình giao lưu văn nghệ-văn nghệ; Phòng Văn hóa và Thông tin, Trung tâm Văn hóa - Thể thao các huyện, thị xã, thành phố tổ chức 257 cuộc hội thi, hội diễn, giao lưu văn hóa - văn nghệ.. Tổ chức được 45 giải thi đấu thể thao quần chúng như cờ tướng, đua ghe ngo, đua thuyền truyền thống, bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, kéo co, đẩy gậy, việt dã… có hơn 10.000 vận động viên, phục vụ 35.300 lượt người đến xem; Tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp huyện ở Phú Quốc, Kiên Hải, Vĩnh Thuận; Đội tuyển cờ vua tham dự: Cờ vua Đồng Tháp mở rộng (đạt 09 huy chương 05 HCV, 03 HCB và 01 HCĐ), Cờ vua Quốc tế HD Bank lần thứ III và vô địch Cờ vua hạng nhất quốc gia năm 2014; Đội tuyển quần vợt tham dự giải Quần vợt vô địch nữ toàn quốc 2014; Đội tuyển Billiards tham gia giải Billiards mở rộng tại TP.HCM... 7.5. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thức phẩm: Trong quý một toàn ngành Y tế tập trung giám sát các bệnh truyền nhiễm có khả năng gây dịch với các bệnh mới nổi như bệnh Cúm A (H5N1; H7N9), bệnh sởi; triển khai các biện pháp phòng, chống dịch có hiệu quả nên không có vụ dịch nào xảy ra trên địa bàn tỉnh. Các bệnh truyền nhiễm phổ biến đa số có số mắc giảm so cùng kỳ và chưa có biến chứng gây tử vong. Từ đầu năm đến nay tổng số ca mắc sốt xuất huyết là 68 cas, giảm 69 cas so cùng kỳ năm 2013 (giảm 50%); Bệnh Tay chân miệng 223 cas, giảm 152 cas so cùng kỳ (giảm 31%);Tiêu chảy mắc 1.251 cas, giảm 656 cas so với cùng kỳ; Bệnh Thương hàn và Phó Thương hàn mắc 20 cas, tăng 06 ca; Bệnh Lỵ trực trùng mắc 25 cas, giảm 40 cas; Bệnh Lỵ Amip mắc 43 cas, giảm 29 cas; Bệnh Thủy đậu mắc 101 cas, tăng 55 cas; Bệnh Quai bị mắc trong tháng là 10 cas, tăng 07 ca so với tháng 02/2014; Bệnh Cúm thường mắc 13 cas, tăng 03 cas so cùng kỳ; Bệnh Đau mắt đỏ (Bệnh do Adenovirus) mắc 114 cas; Nhiễm HIV là 68 cas (trong đó ngoài tỉnh 03 cas), số cas chuyển sang AIDS là 15 ca, tử vong 02 cas... Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm được ngành chức năng quan tâm thương xuyên, tổ chức 22 lớp tập huấn KT VSATTP cho cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, qua thông tin truyền thanh 828 cuộc, nói chuyện chuyên đề ATVSTP 120 buổi với 1.209 người tham dự, tuyên truyền treo 158 băng rôn, khẩu hiệu, 23.205 loại tờ gấp, 5.475 tranh, áp phích; 452 quyển Luật ATVSTP, bản tin, nguyên tắc vàng; 52 băng, đĩa hình; 65 băng đĩa âm...Tiến hành thanh, kiểm tra 5.838/14.600 cơ sở đạt 39,98% kế hoạch. Trong đó có 5.034 cơ sở đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) theo quy định chiếm 86,22%, 804 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP chiếm 13,78%. Tính từ đầu năm đến nay xảy ra 37 người bị ngộ độc thực phẩm, tăng cao so cùng kỳ (quý I năm trước 0 cas), các trường hợp ngộ độc xảy ra rải rác ở các địa phương, trong đó, ngộ độc do tác động của cồn là 36 ca, 01 ca do ngộ độc do ăn thực phẩm. 7.6 Tình hình an toàn giao thông: Theo Ban An toàn Giao thông tỉnh, trong tháng 3 (tính từ ngày 16/2/2014 - 15/3/2014), toàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ tai nạn giao thông đường bộ (không tính vụ va chạm), làm chết 4 người, bị thương 1 người. So với tháng trước giảm 14 vụ, giảm 13 người và giảm 16 người bị thương. Tháng 3 so với cùng kỳ năm trước giảm 5 vụ, giảm 4 người chết và giảm 3 người bị thương. Trong quý I/2014 xảy ra có 42 vụ tai nạn giao thông, làm 36 người chết, 27 người bị thương, so quý 1 năm trước tăng 6 vụ, tăng 11 người chết, giảm 03 người bị thương. Số vụ tai nạn giao thông trong tháng 3 có tín hiệu đáng mừng giảm cả 3 tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương. Tuy nhiên tính chung 3 tháng số vụ và số người chết so cùng kỳ vẫn chưa giảm. Những tháng sắp tới, nếu công tác tuần tra kiểm soát được duy trì và người dân tham gia giao thông có ý thức tôn trọng luật GT, số vụ TNGT xảy ra như trong tháng ba này, thì mục tiêu kéo giảm tai nạn giao thông trong năm nay sẽ thực hiện được. 7.7 Thiệt hại do cháy: Trong tháng tính từ 16/02/2014 đấn 15/3/2014 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 6 vụ cháy (Tp. Rạch Giá xảy ra 02 vụ, các huyện Hòn Đất, Phú Quốc, An Biên, Gò Quao 04 vụ) nguyên nhân do chập điện 04 vụ và 02 vụ chưa rõ nguyên nhân đang chờ điều tra, ước tính thiệt hại 652 triệu đồng. Số vụ cháy so với tháng trước giảm 01 vụ và so cùng kỳ năm trước không tăng giảm. Từ đầu năm đến nay toàn tỉnh xảy ra 16 vụ, mức thiệt hại khoảng 1,652 tỷ đồng, so cùng kỳ năm trước giảm 02 vụ cháy, mức độ thiệt hại giảm 6,667 tỷ đồng (tháng 3 năm trước có một vụ cháy chợ thiệt hại khoảng 5 tỷ đồng). 8. Đề xuất kiến nghị: Kinh tế của tỉnh trong quí I tăng trưởng 8,6% tương đối khá so với các tỉnh trong khu vực (An Giang: 3,25%; Trà Vinh: 6,01%; Cà Mau: 7,7%; Cần Thơ: 8,32%; Tiền Giang: 9%; Long An: 9,5%...). Song khó khăn vẫn còn tiềm ẩn, sản suất nông nghiệp vụ mùa và vụ đông xuân đạt kết quả khả quan, tăng cả diện tích, năng suất và sản lượng, sản lượng lúa bội thu nhưng giá lúa lại đang có xu hướng giảm gây tâm lý lo ngại trong nông dân; khai thác và nuôi trồng thủy sản tăng nhưng sản lượng sản phẩm có giá trị cao không nhiều, giá xăng dầu tăng cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả cả khai thác và nuôi trồng; khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng thấp do sức mua giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm trên 40% so cùng kỳ, lại đang đứng trước nhiều khó khăn. .. Với mức tăng trưởng GDP của quí I năm nay đạt 8,6% đây là mức tăng trưởng tương đối khá nhưng vẫn chưa bằng mức kế hoạch chung cả năm. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm từ 10,5% trở lên như Nghị quyết HĐND tỉnh đã đề ra, Cục Thống kê kiến nghị tỉnh tập trung giải quyết tốt một số vấn đề trọng tâm sau: 1. Các Sở ngành tích cực triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay từ ngân hàng để đẩy mạnh sản xuất. Khẩn trương triển khai và đẩy mạnh tiến độ thực hiện các công trình, dự án đầu tư trọng điểm của tỉnh có vai trò quan trọng, thiết thực đối với phát triển kinh tế cùng với những dự án sớm tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa, tạo việc làm cho nhiều lao động; 2. Tăng cường hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá tiềm năng du lịch, sản phẩm đặc thù của tỉnh để khai thác ổn định thị trường xuất khẩu truyền thống và mở rộng thị trường mới, đặc biệt là những thị trường có nhu cầu hàng hóa phù hợp chủng loại sản phẩm của tỉnh đối với những sản phẩm xuất khẩu mà tỉnh có thế mạnh như nông, thủy sản, nhất là việc tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu gạo. Đồng thời chú trọng đến thị trường trong nước, khuyến khích các đơn vị sản xuất kinh doanh khẩn trương xây dựng và thực hiện chương trình đưa hàng hóa về nông thôn, cùng với việc tăng cường vận động “Người Việt dùng hàng Việt”; 3. Đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, đề án về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, triển khai kịp thời việc thu mua lúa tạm trử từ chính sách hỗ trợ của Chính phủ nhằm ổn định giá lúa trong thời gian thu hoạch rộ, nông dân được hưởng lợi tạo thêm phấn khởi và yên tâm sản xuất. 4. Đẩy mạnh đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp, nhất là cho nuôi tôm công nghiệp. Khuyến khích và đẩy mạnh sản xuất thức ăn chăn nuôi và sản xuất giống cây, con sạch, đồng thời tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi. Tăng cường công tác phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu... Chỉ đạo tốt việc sản xuất lúa hè thu và thu đông, vận động nông dân tăng cường sản xuất các giống lúa chất lượng cao đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu và hạn chế sản xuất lúa có phẩm cấp thấp; 5. Thực hiện tốt việc đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện các chế độ chính sách kịp thời, đúng đối tượng. Đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đào tạo nghề đặc biệt là ở nông thôn. Có kế hoạch đào tạo ngành nghề theo yêu cầu sử dụng lao động trong thời gian tới, giải quyết việc làm cho thanh niên trong độ tuổi lao động. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng trong diện được hưởng chế độ trợ cấp./. Tải về: - Số liệu kinh tế - xã hội tháng 3 và Quý I năm 2014
Số lần đọc: 2050
Cục Thống kê Kiên Giang |
Tin liên quan
|