25.08.2021
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản a. Nông nghiệp Vụ Hè thu (kể cả Xuân hè): kết thúc gieo trồng vụ Xuân hè, toàn tỉnh gieo trồng được 281.802 ha, vượt 0,64% kế hoạch (vượt 1.802 ha) và giảm 0,52% (giảm 1.482 ha) so với diện tích lúa Hè thu năm trước, diện tích giảm chủ yếu ở 3 huyện: Hòn Đất 500 ha, An Biên 575 ha, U Minh thượng 273 ha. Đến nay đã thu hoạch được 115.400 ha, ước tính năng suất trên trà lúa đã thu hoạch đạt 5,6 tấn/ha. Lúa Hè thu năm nay đã có 8.337 ha nhiễm sâu bệnh. Vụ Thu đông (vụ 3): tính đến ngày 15/8, toàn tỉnh đã gieo trồng được 86.000 ha, vượt 17,81% kế hoạch[1], tăng 4,07% so với diện tích lúa thu đông năm trước. Cây rau màu: một số loại cây màu cũng được nhân dân quan tâm sản xuất như: dưa hấu 1.546 ha, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 1.466 ha, tăng 9,57%; khoai mì 346, giảm 1,42%; bắp 252 ha, tăng 9,57%; rau, đậu các loại 7.945 ha, tăng 4,95%. Chăn nuôi Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn ổn định; dịch bệnh được kiểm soát. Tuy nhiên ngành chăn nuôi đang đứng trước rất nhiều khó khăn: tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp việc vận chuyển, tiêu thụ khó khăn, giá con giống ở mức cao, thức ăn chăn nuôi liên tục tăng, dẫn đến hiệu quả chăn nuôi rất thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tái đàn, mở rộng quy mô chăn nuôi. Để khôi phục và phát triển chăn nuôi, ngành nông nghiệp đang tập trung chỉ đạo, triển khai nhanh mô hình chăn nuôi an toàn sinh học trên các đối tượng vật nuôi, nhất là đối với chăn nuôi heo. Theo kết quả điều tra 01/7/2021, đàn trâu có 4.198 con, giảm 0,85% so với cùng kỳ (giảm 36 con), đàn bò 10.425 con, giảm 9,4% (giảm 1.082 con), đàn heo là 183.575 con, giảm 7,98%, đàn gia cầm 4.384 ngàn con, tăng 4,04% so cùng kỳ, trong đó đàn gà: 2.520 ngàn con, tăng 14,08% so cùng kỳ. b. Lâm nghiệp Các ngành chức năng thường xuyên phối hợp với các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao kiến thức về phòng chống cháy rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, duy trì thường xuyên công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, chống chặt phá rừng nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại. Thực hiện Kế hoạch khoanh nuôi, chăm sóc rừng trong năm, đến nay đã có 6.520 ha rừng được chăm sóc, giảm 16,62% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 400 ha, tăng 2,56% so cùng kỳ và diện tích rừng được khoán bảo vệ là 9.779 ha, tăng 4,25% so cùng kỳ. Trong tháng xảy ra 04 vụ phá rừng, diện tích bị thiệt hại là 0,46 ha. Tính chung 8 tháng đã xảy ra 34 vụ phá rừng, diện tích bị thiệt hại 11,47 ha và 8 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị thiệt hại 12,09 ha. c. Thủy sản Giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh 2010): tháng Tám ước tính đạt 3.077,53 tỷ đồng, giảm 4,19% so với tháng trước, giảm 4,77% so cùng tháng[2] năm trước. Tính chung 8 tháng, ước đạt 22.078,37 tỷ đồng, đạt 66,67% kế hoạch năm, tăng 3,3% so cùng kỳ[3] năm trước. Sản lượng thủy sản (cả khai thác và nuôi trồng): tháng Tám ước đạt 73.650 tấn, giảm 4,16% so với tháng trước và giảm 3,66% so cùng kỳ. Tính chung 8 tháng ước tính 562.504 tấn, đạt 70,4% kế hoạch năm, tăng 1,49% so cùng kỳ. Chia ra: Sản lượng khai thác: tháng Tám ước đạt 47.851 tấn, giảm 2,56% so tháng trước, tăng 2,04% so cùng kỳ. Tính chung 8 tháng ước tính 383.441 tấn, đạt 75,18% kế hoạch năm, giảm 0,54% so cùng kỳ[4]. Sản lượng nuôi trồng: tháng Tám ước tính đạt 25.799 tấn, giảm 7,01% so với tháng trước, giảm 12,7% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng giảm so với tháng trước chủ yếu là do giảm sản lượng tôm, thủy sản nuôi khác. Tính chung 8 tháng, ước tính sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch 179.063 tấn, đạt 61,96% kế hoạch năm, tăng 6,13% (tăng 10.350 tấn) so cùng kỳ năm trước[5]. 2. Công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): tháng Tám chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính giảm 16,65% so tháng trước, giảm 25,59% so cùng tháng năm trước. So với tháng trước ngành chế biến, chế tạo giảm 17,76%[6]; ngành khai khoáng giảm 2,93%. Tính chung 8 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 0,69% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 3,79%; ngành chế biến, chế tạo tăng 0,18%[7]. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): tháng Tám ước tính đạt 2.968,16 tỷ đồng, giảm 16,65% so với tháng trước, giảm 26,09% so với cùng tháng năm trước[8]. Tính chung 8 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính 29.251,98 tỷ đồng, đạt 53,76% kế hoạch năm, tăng 1,21% so với cùng kỳ.[9] Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 8 tháng tăng so cùng kỳ như: giày da đạt 57,90% kế hoạch năm, tăng 52,79%; gỗ MDF đạt 69,41% kế hoạch năm, tăng 8,73%; điện thương phẩm đạt 60,54% kế hoạch năm, tăng 9,74%; sản xuất nước mắm đạt 62,05% kế hoạch năm, tăng 5,05%; nước máy đạt 61,21% kế hoạch năm, tăng 2,12%. Nhưng cũng còn một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: bia các loại đạt 52,85% kế hoạch năm, giảm 6,45%; bột cá đạt 43,55%, giảm 17,74%; mực đông lạnh đạt 51,56%, giảm 14,12%; cá đông đạt 51,84%, giảm 6,24%; xi măng đạt 63,05%, giảm 6,74%; nước đá giảm 7,55%; bao bì PP giảm 26,94%...Nguyên nhân là do ảnh hưởng chung tình hình dịch bệnh Covid – 19 diễn biến phức tạp những tháng gần đây đã làm cho một số doanh nghiệp phải ngưng hoạt động, giảm hoạt động do thiếu lao động, không đảm bảo “3 tại chỗ” để phòng chống dịch, sản phẩm tiêu thụ chậm. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 8 năm 2021 bằng 89,67% so cùng kỳ năm trước; trong đó, sản xuất chế biến thực phẩm bằng 89,30% so cùng kỳ; sản xuất đồ uống đạt 101,34% so cùng kỳ; sản xuất trang phục đạt 100,43% so cùng kỳ; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ bằng 73,65%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng 72,75% so cùng kỳ... Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 8 năm 2021 bằng 56,83% so cùng kỳ; sản xuất chế biến thực phẩm bằng 96,81% so cùng kỳ; sản xuất đồ uống bằng 42,24% so cùng kỳ; sản xuất trang phục bằng 22,97% so cùng kỳ; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ bằng 100% so cùng kỳ... 3. Vốn đầu tư thực hiện (Vốn ngân sách nhà nước) Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng Tám (Số giải ngân đến 15/8/2021) ước tính 96,60 tỷ đồng, bằng 40,77% so với tháng trước, giảm 71,28% so cùng tháng năm trước. Trong đó: vốn cân đối ngân sách địa phương 88,82 tỷ đồng, bằng 45,74% so tháng trước, giảm 49,24% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước ước tính 1.127,32 tỷ đồng, mới đạt 24,17% kế hoạch năm và chỉ bằng 58,31% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn cân đối ngân sách địa phương 914,56 tỷ đồng, đạt 23,08% kế hoạch năm, bằng 87,78% cùng kỳ năm trước; vốn xổ số kiến thiết 441,99 tỷ đồng, đạt 27,45% kế hoạch, tăng 8,10% so với cùng kỳ. 4. Thu, chi ngân sách nhà nước Tổng thu ngân sách nhà nước tháng Tám ước thu 412,50 tỷ đồng, chỉ bằng 40,98% so với tháng trước, giảm 54,50% so cùng tháng năm trước. Trong đó thu nội địa 400 tỷ đồng, chỉ bằng 39,90% so với tháng trước, bằng 44,35% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, tổng thu ngân sách ước đạt 7.102,36 tỷ đồng, đạt 61,44% dự toán năm, giảm 18,02% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa 7.059,41 tỷ đồng, chiếm 99,40% tổng thu, đạt 61,87% dự toán năm, giảm 16,65%. So với cùng kỳ năm trước, có một số khoản thu tăng khá cao[10], song vẫn còn một số khoản thu đạt thấp như thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước mới bằng 28,63% cùng kỳ, đạt 28,72% dự toán; thu tiền sử dụng đất bằng 38,24% cùng kỳ, đạt 37,64% dự toán; thu thuế bảo vệ môi trường bằng 74,68% cùng kỳ, đạt 44,22% dự toán. Tổng chi ngân sách địa phương tháng Tám ước tính 996,69 tỷ đồng, tăng 74,83% so với tháng trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển 183,80 tỷ đồng, tăng 7,64% so tháng trước; chi thường xuyên 812,89 tỷ đồng, tăng 65,11% so tháng trước. Tính chung 8 tháng, tổng chi ngân sách địa phương ước tính 6.850,04 tỷ đồng, bằng 44,30% dự toán năm, giảm 9,95% so cùng kỳ năm trước[11]. 5. Ngân hàng Hoạt động huy động vốn và tín dụng tiếp tục tăng trưởng, kịp thời đáp ứng nhu cầu phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Ước tính đến 31/8/2021, một số chỉ tiêu đạt như sau: Tổng nguồn vốn hoạt động ước đạt 112.700 tỷ đồng, tăng 7,23% so đầu năm, tăng 0,55% so tháng trước; trong đó, vốn huy động tại địa phương ước đạt 57.200 tỷ đồng (chiếm 50,75% tổng nguồn vốn hoạt động), tăng 3,78% so đầu năm, giảm 0,24% so tháng trước. Doanh số cho vay trong tháng ước đạt 11.000 tỷ đồng, trong đó 85% doanh số cho vay là phục vụ sản xuất kinh doanh; dư nợ cho vay ước đạt 93.000 tỷ đồng, tăng 5,72% so đầu năm, tăng 0,47% so tháng trước. Nợ xấu nội bảng ước tính 1.050 tỷ đồng, chiếm 1,13% tổng dư nợ. Nợ tổn thất (nợ đã xử lý bằng dự phòng rủi ro và đang theo dõi ngoại bảng) ước tính 1.100 tỷ đồng. Hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng trên địa bàn khá ổn định. Tỷ giá vàng và ngoại tệ diễn biến theo xu hướng chung của cả nước và thế giới. 6. Thương mại - dịch vụ và giá cả Trước tình hình dịch Covid-19 tái bùng phát lần thứ tư trên phạm vi cả nước từ cuối tháng 7 cho đến nay tại tất cả các tỉnh phía nam, trong đó có Kiên Giang, đã ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn, ảnh hưởng nặng nhất vẫn là dịch vụ du lịch lữ hành 2 tháng không phát sinh doanh thu…: a. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám ước đạt 5.657,87 tỷ đồng, giảm 26,27% so tháng trước, giảm 38,51% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, ước đạt 73.051,28 tỷ đồng, đạt 58,85% kế hoạch năm, tăng 0,97% so với cùng kỳ. Chia theo ngành hoạt động Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng Tám ước đạt 4.568,49 tỷ đồng, giảm 25,19% so với tháng trước, giảm 33,35% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, ước đạt 55.925,51 tỷ đồng, đạt 60,38% kế hoạch năm, tăng 3,32% so với cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng Tám ước tính 435,18 tỷ đồng, giảm 36,28% so tháng trước, chỉ bằng 35,84% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, ước đạt 8.648,82 tỷ đồng, đạt 51,48% kế hoạch năm, giảm 8,19% so cùng kỳ. Doanh thu du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch tháng Tám do ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19 nên không phát sinh doanh thu. Tính chung 8 tháng ước đạt 154,05 tỷ đồng, đạt 61,62% kế hoạch năm, tăng 0,08% so cùng kỳ. Doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng Tám ước đạt 654,21 tỷ đồng, giảm 26% so với tháng trước, giảm 41,58% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng ước tính 8.322,91 tỷ đồng, đạt 57,60% kế hoạch năm, giảm 3,75% so cùng kỳ năm trước. b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tám ước đạt 64,50 triệu USD, giảm 13,15% so với tháng trước và giảm 10,62% so cùng tháng năm trước[12]. Tính chung 8 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính 509,65 triệu USD, đạt 67,95% kế hoạch năm, tăng 8,62% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, hàng nông sản 168,29 triệu USD, tăng 5,1% so cùng kỳ, hàng thủy sản 159,7 triệu USD, tăng 11,87% so cùng kỳ. Với một số mặt hàng xuất chủ yếu như: gạo 313.899 tấn, đạt 65,4% kế hoạch năm, giảm 4,42% so cùng kỳ; tôm đông 3.289 tấn, đạt 73,09% kế hoạch, tăng 21,28%; mực, bạch tuộc đông 8.147 tấn, đạt 65,18% kế hoạch, tăng 6,11% ... Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tám ước đạt 12 triệu USD, giảm 13,92% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng ước tính đạt 93,72 triệu USD, đạt 93,72% kế hoạch năm, giảm 4,71% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu, chủ yếu vẫn là nguyên liệu dùng cho sản xuất. c. Chỉ số giá Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Tám tăng 0,22% so với tháng trước. Trong đó: khu vực thành thị tăng 0,91%, khu vực nông thôn giảm -0,19%. CPI tháng Tám tăng nhẹ so với tháng trước, chỉ có 4/11 nhóm tăng, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với mức tăng 0,54% (trong đó thực phẩm tăng 0,90%, lương thực giảm 0,01%); kế đến là nhóm giao thông tăng 0,38%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD và nhóm thuốc và dịch vụ y tế đều tăng 0,05%. Có 1 nhóm giảm đó là nhóm thiết bị đồ dùng gia đình giảm -0,03%. Còn lại các nhóm khác bình ổn. So với tháng 12 năm trước (sau 8 tháng) chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,08%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, duy nhất chỉ có nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm -1,44% và cũng chỉ có nhóm Bưu chính viễn thông là bình ổn (bằng 100%), còn lại tất cả các nhóm khác đều tăng giá. Trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất 12,06%; kế đến là nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 4,57%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 4,13%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,00% (lương thực tăng 2,72%, thực phẩm tăng 2,84%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,84%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,20%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,11%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,49%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,44%; giáo dục tăng 0,08%. Chỉ số giá vàng: tháng Tám so với tháng trước không thay đổi và giảm 3,86% so với tháng 12 năm trước, giảm 4,75% so với cùng tháng năm trước. Giá vàng nhẫn bình quân tháng 8 là 5.136.000 đồng/chỉ. Chỉ số giá đô la Mỹ: tháng Tám giảm 0,33% so với tháng trước, giảm 1,01% so với cùng tháng năm trước và giảm 0,97% so với tháng 12 năm trước. Giá USD bình quân tháng 8 tại liên ngân hàng là 2.303.400 đồng/100 USD, giảm 7.600 đồng/100 USD so với tháng trước. d. Vận tải Vận tải hành khách: tháng Tám ước tính vận chuyển 267 ngàn lượt khách, chỉ bằng 8,3% so tháng trước, bằng 3,88% so với cùng tháng năm trước; luân chuyển 19,18 triệu HK.km, bằng 8,95% so tháng trước, chỉ bằng 4,24% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, vận chuyển hành khách ước đạt 50,59 triệu lượt khách, đạt 51,21% kế hoạch năm, giảm 13,7% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 3.307,64 triệu HK.km, đạt 50,97% kế hoạch năm, giảm 13,98% so cùng kỳ. Trong đó, vận chuyển hành khách đường bộ giảm 13,68%, vận chuyển hành khách đường biển giảm 10,28% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa: tháng Tám, hàng hóa vận chuyển ước tính 886 ngàn tấn, giảm 17,12% so tháng trước, giảm 23,22% so cùng tháng năm trước; luân chuyển 127,60 triệu tấn.km, giảm 16,88% so tháng trước, giảm 22,51% so cùng tháng năm trước. Tính chung 8 tháng, vận chuyển hàng hóa ước tính 9,38 triệu tấn, đạt 67% kế hoạch năm, tăng 1,35% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận chuyển hàng hóa đường bộ tăng 1,41%, vận tải hàng hóa đường biển tăng 2,81%; luân chuyển 1.286,26 triệu tấn.km, đạt 64,94% kế hoạch năm, giảm 2,64% so với cùng kỳ. e. Du lịch Do ảnh hưởng chung của dịch covid-19 nên khách du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Tám rất thấp, có một số khách bị kẹt lại ở thành phố Phú Quốc do giãn cách xã hội. Ước tính khách du lịch trong tháng 8 chỉ có 4,12 ngàn lượt khách, bằng 66,63% lượng khách của tháng trước và chỉ bằng 0,88% lượng khách của tháng 8/2020. Tính chung 8 tháng, tổng lượt khách du lịch trên địa bàn tỉnh là 2.321,73 ngàn lượt khách, đạt 33,17% kế hoạch năm, chỉ bằng 59,49% so cùng kỳ năm trước. Trong đó lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch là 1.138,41 ngàn lượt khách, đạt 33,48% kế hoạch năm, giảm 28,01% so cùng kỳ năm trước. Trong đó khách quốc tế 28,58 ngàn lượt khách, mới đạt 7,14% kế hoạch năm và chỉ bằng 12,92% so cùng kỳ. 8. Một số tình hình xã hội a. Lao động, giải quyết việc làm, đào tạo nghề Trong tháng Tám công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm bị ảnh hưởng và gián đoạn do các địa phương trong toàn tỉnh đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid – 19. Tính chung 8 tháng giải quyết việc làm được 19.464 lượt người, đạt 55,61% so kế hoạch năm; đào tạo nghề cho 13.195 người, đạt 53% kế hoạch. Tổng số người lao động nước ngoài được cấp phép trong tháng là 7 người, tính từ đầu năm đến nay là 53 người. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển sinh bằng nhiều hình thức trực tuyến phù hợp với tình hình phòng, chống dịch Covid-19. b. Giáo dục Báo cáo kết quả xét công nhận tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2021 sơ bộ về Bộ Giáo dục Đào tạo: Toàn tỉnh tổng số thí sinh được công nhận tốt nghiệp đợt I là 12.937, tỷ lệ đỗ 99,60% cao hơn năm 2020 là 0,23%. Hoàn thành cấp giấy chứng nhận kết quả kỳ thi THPT đợt I. Hướng dẫn các đơn vị có 61 thí sinh đăng ký dự thi đợt 2 kỳ thi tốt nghiệp THPT tiến hành đăng ký nguyện vọng xem xét đặc cách xét công nhận tốt nghiệp THPT (do tình hình dịch phức tạp, tỉnh không tổ chức thi tốt nghiệp THPT đợt II). c. Tình hình y tế Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp và đang tiếp tục lây lan với tốc độ nhanh trong cộng đồng trên các địa phương trong cả nước, trong đó tỉnh Kiên Giang đang có nhiều cas lây nhiễm trong cộng đồng. Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang đã quyết định tiếp tục kéo dài thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 trên địa bàn toàn tỉnh lần thứ ba, thời gian thực hiện giãn cách tiếp tục thêm 10 ngày, bắt đầu từ 0 giờ ngày 16/8 đến hết ngày 25/8/2021. Tình hình dịch bệnh: - Tình hình dịch Covid-19: tính đến ngày 19/8, toàn tỉnh ghi nhận 853 trường hợp mắc Covid-19 (832 trường hợp được Bộ Y tế công bố), đã điều trị khỏi 403 trường hợp, 6 trường hợp tử vong, 444 trường hợp đang điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong tỉnh (bao gồm các trường hợp đang xin mã số của Bộ Y tế). Hiện tại đang cách ly tập trung 1.496 trường hợp; cách ly tại nhà, nơi lưu trú 4.125 trường hợp. Tổng số trường hợp được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 là 92.831 trường hợp, trong đó số trường hợp có kết quả dương tính 853 trường hợp. Tổng số trường hợp nhập cảnh qua cửa khẩu quốc tế Hà Tiên tính từ ngày 20/02/2021 đến nay 2.267 trường hợp. - Bệnh sốt xuất huyết trong tháng ghi nhận 103 cas, trong đó có 15 cas sốt xuất huyết nặng (huyện An Biên 06 cas, An Minh 05 cas, Kiên Lương 01 cas, Giồng Riềng 01 cas, Vĩnh Thuận 01 cas, Kiên Hải 01 cas), giảm 2 cas so với tháng trước; địa bàn có số cas mắc cao là huyện An Minh 29 cas, Kiên Hải 21 cas, An Biên 15 cas. Tính chung từ đầu năm số cas mắc là 572 cas, không có trường hợp tử vong. - Bệnh tay chân miệng có 8 cas mắc, giảm 8 cas so với tháng trước. Tính chung từ đầu năm số cas mắc là 983 cas. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: thực hiện thanh, kiểm tra 425 cơ sở, trong đó có 385 cơ sở đảm bảo VSATTP theo quy định (90,59%) và 40 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP (9,41%), đã xử lý nhắc nhở và hướng dẫn cơ sở thực hiện việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong tháng không ghi nhận trường hợp ngộ độc thực phẩm nào. d. Hoạt động Văn hóa, Thể dục thể thao - Hoạt động Văn hóa: tập trung tuyên truyền các hoạt động phục vụ các nhiệm vụ chính trị nhất là tuyên truyền kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2021) và Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2021). Thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch Covid-19, các đơn vị tạm ngưng các dịch vụ và hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Bên cạnh đó, vẫn thực hiện một số nhiệm vụ như Thư viện tỉnh phối hợp Ban Tuyên Giáo - Trung tâm Chính trị huyện Vĩnh Thuận hỗ trợ cấp 1.000 quyển sách cho Chương trình “Sách, tập trao tay học ngày giãn cách” đồng hành cùng thanh, thiếu nhi Vĩnh Thuận trong khu phong tỏa, cách ly phòng, chống dịch bệnh Covid-19... - Hoạt động Thể dục thể thao: tạm hoãn tổ chức các giải thể dục, thể thao trên địa bàn tỉnh, thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch Covid-19. e. Tình hình an toàn giao thông Tính từ ngày 15/7/2021 đến 14/8/2021, toàn tỉnh xảy ra 02 vụ tai nạn giao thông, làm chết 01 người, bị thương 01 người (trong đó 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy làm chết 01 người). So với tháng trước số vụ tai nạn giao thông giảm 03 vụ, giảm 03 người chết và tăng 01 người bị thương. Tính chung 8 tháng đầu năm (từ 15/12/2020 đến 14/8/2021) toàn tỉnh xảy ra 79 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 72 vụ, đường thủy 7 vụ), làm 51 người chết (đường bộ 47 người, đường thủy 4 người), 44 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, giảm 3 vụ (giảm 3,66%), tăng 02 người chết (tăng 4,08%) và giảm 4 người bị thương (giảm 8,33%). f. Tình hình cháy, nổ và thiên tai Tình hình cháy nổ: từ ngày 15/07/2021 đến 14/08/2021 toàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ. Tính chung từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh Kiên Giang xảy ra 11 vụ cháy, 01 vụ nổ, làm bị thương 01 người và chết 01 người. Thiệt hại ước khoảng trên 5,2 tỷ đồng. Tình hình thiên tai: từ ngày 15/7/2021 đến 14/8/2021 trên địa bàn tỉnh có xảy ra mưa giông lớn kèm lốc xoáy đã làm sập hoàn toàn 50 căn nhà (Hòn đất 01 căn; Tân Hiệp 03 căn; Châu Thành 01 căn; Giồng Riềng 23 căn; An Biên 08 căn; An Minh 12 căn; Kiên Hải 01 căn; Phú Quốc 01 căn), tốc mái 116 căn (Rạch Giá 08 căn; Kiên Lương 07 căn; Châu Thành 06 căn; An Minh 23 căn; Hòn Đất 03 căn; Tân Hiệp 09 căn; An Biên 10 căn; Giồng Riềng 34 căn; Gò Quao 02 căn; Vĩnh Thuận 05 căn; U Minh Thượng 03 căn; Kiên Hải 01 căn; Phú Quốc 02 căn; Giang Thành 03 căn) làm bị thương 15 người (Giồng Riềng). Chính quyền địa phương đã huy động lực lượng nhanh chóng giúp dân thu gom đồ đạc, hỗ trợ tiền để khắc phục, thống kê thiệt hại tài sản, đồng thời ưu tiên lo chỗ ở cho dân, kiên quyết không để người dân thiếu đói hoặc không có nơi ở. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng thiên tai do giông lốc, gió giật mạnh đã làm sập 120 căn nhà, tốc mái 202 căn, bị thương 17 người, chết 2 người. Thiệt hại về vật chất ước tính khoảng trên 10,15 tỷ đồng./. Tải về: - Số liệu Kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2021 của tỉnh Kiên Giang; - Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 năm 2021 của tỉnh Kiên Giang [1] Diện tích gieo trồng ở các huyện như Tân Hiệp 31.618 ha, Giồng Riềng 27.741 ha, Giang Thành 13.514 ha, Châu Thành 5.376 ha, Hòn Đất 4.410 ha ... [2] Chia ra: Giá trị khai thác giảm 1,47% so tháng trước, tăng 1,80% so cùng kỳ; giá trị nuôi trồng giảm 6,06% so tháng trước, giảm 9% so cùng kỳ. [3] Chia ra: Giá trị khai thác đạt 76,97% kế hoạch năm, tăng 0,03% so cùng kỳ; nuôi trồng đạt 59,76% kế hoạch, tăng 6,31%. [4] Trong đó cá các loại giảm 0,83% (giảm 2.412 tấn); mực giảm 0,68% (giảm 328 tấn). [5] Trong đó Cá nuôi tăng 2,78% (tăng 1.218 tấn) so với cùng kỳ và đạt 49,41% kế hoạch năm; tôm các loại tăng 10,93% (tăng 7.276 tấn) so với cùng kỳ và đạt 75,35% kế hoạch năm. [6] Trong đó: ngành chế biến thực phẩm giảm 15,0%; ngành sản xuất đồ uống giảm 22,03%... [7] Trong đó: Ngành sản xuất đồ uống tăng 1,12%, ngành chế biến thực phẩm giảm 1,89%... [8] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 93,14%/ trong tổng số, giảm 27,32%. [9] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 94,21%/ trong tổng số, tăng 0,83%. [10] Thu từ doang nghiệp NN TW, đạt 62,76% dự toán năm, tăng 35,04% so cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân đạt 86,29%, tăng 10,96%; thu phí, lệ phí đạt 75,75% dự toán, tăng 21,20%; thu lệ phí trước bạ đạt 66,65%, tăng 3,75%... [11] Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 24,55% dự toán năm, giảm 40,70% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 57,14% dự toán và tăng 2,18% so với cùng kỳ. [12] So với tháng trước, giá trị hàng nông sản tăng 28,03%; hàng thủy hải sản giảm 2,94%; nguyên liệu giày da giảm 53,43%.
Số lần đọc: 1116
Cục thống kê Kiên Giang |
Tin liên quan
|