24.07.2018
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản a. Nông nghiệp * Vụ Hè thu (kể cả Xuân hè): Tính đến nay, toàn tỉnh xuống giống được 304.624 ha, đạt 108,79% so với kế hoạch, tăng 0,55% so với cùng kỳ. tập trung ở các huyện: Vĩnh Thuận 5.916 ha, U Minh Thượng 1.318 ha, An Biên 8.849 ha, An Minh 93 ha, Giang Thành 42.260 ha, Tân Hiệp 36.655 ha, Hòn Đất 79.213 ha, Rạch Giá 5.536 ha, ChâuThành 19.403 ha, Giồng Riềng 46.824 ha, Gò Quao 26.557 ha và Kiên Lương 22.000 ha . Đến nay diện tích đã thu hoạch được 87.315 ha, năng suất ước đạt 5,2 tấn/ha. Diện tích bị nhiễm sâu bệnh trên lúa Hè thu là 18.385 ha, các đối tượng gây hại chủ yếu gồm bệnh Vàng lùn – lùn xoắn lá 2.168 ha, xuất hiện ở các địa phương như Giồng Riềng, Hòn Đất, Giang Thành, Gò Quao và Kiên Lương, trong đó có 124 ha bị nhiễm nặng; bệnh sâu cuốn lá 4.098 ha, bệnh Đạo ôn lá 5.715 ha, Rầy nâu 1.936 ha … Hiện nay đang vào mùa mưa bão, thời tiết diễn biến thất thường ảnh hưởng đến thời kỳ sinh trưởng của cây lúa và sâu bệnh phát sinh. Đồng thời mưa nhiều làm lúa bị ngã đổ, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cũng như tiến độ thu hoạch, và giá lúa giảm nhiều mà lại còn khó bán, gây không ít khó khăn cho nông dân. Vì vậy, các ngành chức năng cần tăng cường chỉ đạo các huyện, thị và các cơ quan chuyên môn có biện pháp hướng dẫn nông dân thu hoạch, bảo quản lúa cũng như có biện pháp phòng, trị bệnh hữu hiệu nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra. * Vụ Thu Đông (vụ 3): Sau khi thu hoạch xong vụ hè thu các địa phương tiến hành gieo trồng lúa Thu đông, đến nay đã xuống giống được 40.023 ha, đạt 50,03% so với kế hoạch, bằng 56,72% so với cùng kỳ năm trước. Tập trung ở các huyện Giồng Riềng 19.307 ha, Tân Hiệp 13.942 ha, Châu Thành 3.887 ha, Hòn Đất 2.257 ha, Gò Quao 310 ha và Rạch Giá 320. * Cây màu: Tính từ đầu năm đến nay trên toàn tỉnh, bà con nông dân đã trồng được các loại cây màu chủ yếu như: Dưa hấu 915 ha, giảm 13,11% so cùng kỳ; khoai lang 890 ha, tăng 0,11%; rau đậu các loại 6.542 ha, giảm 1,28% so cùng kỳ năm trước... * Chăn nuôi: Tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh so kế hoạch và so với cùng kỳ đều giảm nhẹ, mặc dù giá thịt hơi các loại trên thị trường mấy tháng gần đây đã có chiều hướng tăng lên, nhất là giá thịt heo hơi đã tăng cao hơn từ 10 đến 20 ngàn đồng so với năm trước nhưng bà con nông dân chưa mạnh dạn đầu tư tái đàn vì tính ổn định của thị trường chưa chắc chắn. b. Lâm nghiệp Tình hình chăm sóc và bảo vệ rừng được thực hiện thường xuyên, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền các địa phương tuyên truyền giáo dục,vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẳn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Do thời tiết tháng 7 mưa nhiều nên không xảy ra vụ cháy rừng nào, tuy nhiên trong tháng còn xảy ra 3 vụ vi phạm chặt phá lấn chiếm đất rừng ở huyện Phú Quốc, Kiên Hải với diện tích khoảng 0,207 ha. c. Thủy sản Giá trị sản xuất thủy sản (theo giá so sánh 2010): Tháng Bảy ước đạt 3.167,9 tỷ đồng, tăng 4,89% so với tháng trước, tăng 12,93% so với cùng kỳ năm trước. Gồm: Giá trị khai thác 1.302,98 tỷ đồng, giảm 0,94% so tháng trước, tăng 4,14% so cùng kỳ. Giá trị nuôi trồng 1.864,92 tỷ đồng, tăng 9,39% so tháng trước, tăng 20,01% so cùng kỳ. Tính chung 7 tháng giá trị sản xuất thuỷ sản ước tính 16.291,90 tỷ đồng, đạt 55,36% kế hoạch năm, tăng 12,23% so cùng kỳ. Gồm: khai thác 8.846,74 tỷ đồng, đạt 56,24% kế hoạch, tăng 8,54% so cùng kỳ; nuôi trồng 7.445,17 tỷ đồng, đạt 54,34% kế hoạch, tăng 16,94% so cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng thủy sản (khai thác và nuôi trồng): Tháng Bảy ước thực hiện 79.738 tấn, tăng 7,73 % so tháng trước, tăng 5,75% so cùng kỳ. Tính chung 7 tháng 450.279 tấn, đạt 57,43% kế hoạch năm, tăng 7,21% so cùng kỳ. Sản lượng khai thác: Tháng Bảy ước đạt 49.824 tấn thủy sản các loại, giảm 0,98% (giảm 495 tấn) so tháng trước. Trong đó: cá các loại 37.038 tấn, giảm 1,70% (giảm 640 tấn); tôm 3.150 tấn, tăng 3,21% (tăng 98 tấn); mực 6.145 tấn, tăng 1,15% (tăng 70 tấn)... Tính chung 7 tháng sản lượng khai thác ước tính được 336.781 tấn, đạt 60,79% kế hoạch năm, tăng 6,54% so cùng kỳ năm trước (tăng 20.667 tấn), trong đó: cá các loại 251.058 tấn, tăng 8,91% (tăng 20.541 tấn); tôm 20.809 tấn, tăng 0,41% (tăng 85 tấn); mực 41.633 tấn, tăng 3,99% (tăng 1.596 tấn)... Sản lượng nuôi trồng tháng Bảy ước đạt 29.914 tấn thủy sản các loại, tăng 26,23% so tháng trước (tăng 6.216 tấn), tăng 8,29% so cùng kỳ. Trong đó, cá các loại 5.941 tấn, tăng 39,69% so tháng trước; tôm các loại 10.482 tấn, tăng 9,53%, tăng 20,97% so cùng kỳ. Trong đó: tôm thẻ chân trắng 2.942 tấn, tăng 87,63 % (tăng 1.374 tấn); tôm sú 7.063 tấn, tăng 2,66% (tăng 183 tấn); thủy sản khác như sò các loại 4.054 tấn, tăng 1.807 tấn; hến 4.957 tấn, tăng 1.010 tấn... Tính chung 7 tháng sản lượng nuôi trồng ước được 113.498 tấn, đạt 49,35% kế hoạch, tăng 9,24% (tăng 9.600 tấn) so cùng kỳ, trong đó: Cá nuôi các loại 28.827 tấn, giảm 2,65% (giảm 786 tấn); tôm các loại 43.622 tấn, đạt 63,22% kế hoạch, tăng 28,60% (tăng 9.702 tấn), trong đó tôm sú được 25.791tấn, tăng 16,33% (tăng 3.621tấn); tôm thẻ chân trắng 12.893tấn, tăng 87,48% ( tăng 6.016 tấn); riêng thủy sản khác như sò nuôi 19.139 tấn, giảm 674 tấn; cua 9.904 tấn, tăng 1.649 tấn. Tính đến nay, diện tích thủy sản thả nuôi được 149.493 ha, tăng 0,90% so cùng kỳ năm trước. Trong đó diện tích thả nuôi tôm là 120.938 ha, riêng nuôi tôm công nghiệp 1.974 ha (Hà Tiên 327 ha, Kiên Lương 1.156 ha, Giang Thành 164 ha, Hòn Đất 280 ha…). 2. Công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp: Tháng Bảy, chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 4,59% so tháng trước, tăng 12,21% so cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, ngành tăng cao nhất là ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 7,19%; kế đến là ngành khai khoáng tăng 7,02%; ngành chế biến, chế tạo tăng 4,47%, trong đó: ngành chế biến, bảo quản thủy sản tăng 7,47%, ngành sản xuất xi măng tăng 2,67%; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước đá tăng 4,62%. Tính chung 7 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 8,89% so cùng kỳ năm trước, ngành tăng cao nhất là ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 12,88%; Kế đến là Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước đá tăng 9,91%; ngành chế biến, chế tạo tăng 8,83%, trong đó: ngành sản xuất xi măng tăng 14,72%, ngành chế biến, bảo quản thủy sản tăng 11,77%; Ngành khai khoáng tăng 4,37%. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): Tháng Bảy, ước tính 3.661,22 tỷ đồng, tăng 4,95% so tháng trước, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3.531,72 tỷ đồng, tăng 4,91%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 63,35 tỷ đồng, tăng 4,72%; ngành khai khoáng đạt 50,55 tỷ đồng, tăng 7,77%. Tính chung 7 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính đạt 23.650,53 tỷ đồng, đạt 55,67% kế hoạch năm, tăng 9,89% so cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 22.837,98 tỷ đồng, chiếm 96,56%/Tổng giá trị sản xuất toàn ngành, tăng 9,93%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước 402,75 tỷ đồng, tăng 10,06%; ngành khai khoáng 296,52 tỷ đồng, tăng 4,87%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải 113,27 tỷ đồng, tăng 13,80% so cùng kỳ. Một số sản phẩm công nghiệp 7 tháng đầu năm có mức tăng khá cao so cùng kỳ năm trước như: xi măng địa phương 868,87 ngàn tấn, tăng 14,73%; xi măng Trung ương 998,48 ngàn tấn, tăng 19,83%; tôm đông 2.068 tấn, tăng 9,19%; Gạch không nung 3.901 ngàn viên, tăng 40,58%; Bia các loại 59.000 ngàn lít, tăng 35,29% so cùng kỳ... Chỉ số tiêu thụ Toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7 chỉ bằng 99,95% tháng trước. Trong đó, ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 8,85%, ngành sản xuất đồ uống tăng 6,82%; ngành sản xuất trang phục tăng 69,55%; Riêng ngành sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng chỉ bằng 87,52%... Tính chung 7 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tăng 2,66% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành sản xuất đồ uống tăng 45,73%; ngành sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng tăng 14,65%...còn lại các ngành khác tăng nhẹ. Riêng ngành chế biến thực phẩm chỉ bằng 93,60% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho Toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7 tăng 6,22% so với tháng trước, tăng 29,17% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng nhiều so với năm trước như: Mực đông lạnh tăng 47,05%, chế biến và bảo quản thủy sản tăng 27,28%; ngành sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng tăng 2,74 lần... Từ những chỉ số trên cho thấy, những tháng gần đây các doanh nghiệp sản xuất xi măng còn gặp không ít khó khăn trong khâu tiêu thụ nên lượng tồn kho khá nhiều. Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2018 tăng 43,71% so với cùng thời điểm này năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,66%; doanh nghiệp ngoài NN tăng 67,08%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,54%. 3. Vốn đầu tư Vốn đầu tư ước thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý (theo số giải ngân Kho bạc) tháng Bảy ước tính 325,06 tỷ đồng, so tháng trước giảm 6,62%. Bao gồm: Vốn cân đối ngân sách địa phương 166,76 tỷ đồng, giảm 3,41%; vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương 99,42 tỷ đồng, tăng 11,82%; vốn ngoài nước (ODA) 9,25 tỷ đồng, tăng 44,55% so tháng trước. Tính chung 7 tháng (đến 15/7/2018) vốn đầu tư ước thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước 1.768,86 tỷ đồng, đạt 31,48% kế hoạch năm, bằng 83,54% so cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vốn cân đối ngân sách địa phương 860,03 tỷ đồng, đạt 42,15% kế hoạch, bằng 77,66% so cùng kỳ; vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương 459,14 tỷ đồng, đạt 46,43% kế hoạch, tăng 62,21%; vốn ngoài nước ODA 28,77 tỷ đồng, đạt 11,83% kế hoạch, bằng 24,95% so cùng kỳ. 4. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách trên địa bàn: Tháng Bảy ước tính thu ngân sách 631,33 tỷ đồng, bằng 91,21 % tháng trước, tăng 11,54% so cùng kỳ năm trước. Tổng thu ngân sách 7 tháng được 6.069,68 tỷ đồng, đạt 65,72% dự toán HĐND tỉnh giao, tăng 16,89% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa 5.700,35 tỷ đồng, đạt 62,64% dự toán, tăng 12,59% so cùng kỳ, chiếm 93,92%/ trong tổng thu ngân sách của tỉnh. Một số khoản thu đạt dự toán khá cao như: Thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước 553,58 tỷ đồng, đạt 184,53% dự toán, tăng 3,2 lần so cùng kỳ; Thu thuế xuất nhập khẩu 369,33 tỷ đồng, đạt 271,57% dự toán, tăng 4,30 lần so cùng kỳ; Thu phí trước bạ 293,12 tỷ đồng, đạt 77,14% dự toán, tăng 60,78% so cùng kỳ. Tuy nhiên, vẫn còn một số khoản thu còn đạt thấp như : thu từ doanh nghiệp NN địa phương chỉ đạt 44,64% dự toán, giảm 21,63% so cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp NN TW đạt 50,80% dự toán, giảm 9,43% so cùng kỳ; thu tiền sử dụng đất đạt 56,14% dự toán, giảm 39,81% so cùng kỳ… Tổng chi ngân sách địa phương: Tháng Bảy ước tính chi 1.424,95 tỷ đồng, tăng 27,50% so tháng trước, tăng 2,12 lần so cùng kỳ. Tính từ đầu năm tổng chi ngân sách là 6.650,5 tỷ đồng, bằng 46,41% dự toán năm, tăng 8,38% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chi thường xuyên 4.325,7 tỷ đồng, đạt 52,32% dự toán năm, tăng 9,77% so cùng kỳ; chi đầu tư phát triển 2.324,8 tỷ đồng, đạt 41,37% dự toán năm, tăng 8,03% so với cùng kỳ. 5. Ngân hàng Hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh trong tháng 7 ổn định, tình hình huy động vốn tăng nhẹ, hoạt động tín dụng tăng khá. Ước đến 31/7/2018, một số chỉ tiêu hoạt động ngân hàng trên địa bàn cụ thể như sau: Tổng nguồn vốn hoạt động đạt 81.600 tỷ đồng, tăng 1,31% so với tháng trước, tăng 13,95% so với đầu năm. Trong đó, số dư huy động vốn tại địa phương đạt 50.000 tỷ đồng, tăng 0,53% so với tháng trước, tăng 15,13% so với đầu năm, chiếm 61,27% tổng nguồn vốn hoạt động. Ước doanh số cho vay tháng 7 đạt 15.000 tỷ đồng. Dư nợ cho vay đến 31/7/2018 đạt 63.000 tỷ đồng, tăng 1,52% so với tháng trước, tăng 11,29% so với đầu năm. Dư nợ xấu ước tính 550 tỷ đồng, chiếm 0,87%/tổng dư nợ. Hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng trên địa bàn khá ổn định. Tỷ giá vàng và ngoại tệ diễn biến theo xu hướng chung của cả nước và thế giới. Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, các ngân hàng đã thực hiện cho vay với mức lãi suất hợp lý, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. 6. Thương mại - dịch vụ a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tháng Bảy đạt 7.911,57 tỷ đồng, tăng 1,80% so tháng trước, tăng 7,57% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính 52.417,15 tỷ đồng, đạt 54,89% kế hoạch, tăng 10,77% so cùng kỳ. Trong đó: * Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Tháng Bảy ước tính 5.633,31 tỷ đồng, tăng 1,11% so tháng trước, tăng 8,51% so cùng kỳ. Tính chung 7 tháng 38.085,93 tỷ đồng, đạt 53,42% kế hoạch, tăng 11,08% so cùng kỳ. * Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống: Tháng Bảy ước tính 1.255,16 tỷ đồng, tăng 4,71% so tháng trước. Tính chung 7 tháng đạt 7.419,06 tỷ đồng, đạt 59,78% so kế hoạch, tăng 7,96% so cùng kỳ năm trước. Chia ra: Doanh thu dịch vụ lưu trú: Tháng Bảy ước tính 353,98 tỷ đồng, tăng 17,35% so tháng trước, tăng 5,90% so cùng kỳ. Tính chung 7 tháng ước đạt 2.041,72 tỷ đồng, tăng 6,10% so cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ ăn uống: Thực hiện tháng Bảy ước đạt 901,17 tỷ đồng, tăng 0,45% so tháng trước. Tính chung 7 tháng đạt 5.377,33 tỷ đồng, tăng 8,68% so cùng kỳ năm trước. * Doanh thu du lịch lữ hành: Tháng Bảy ước tính 34,89 tỷ đồng, tăng 16,74% so tháng trước. Tính chung 7 tháng doanh thu du lịch lữ hành được 172,01 tỷ đồng, đạt 59,31% so kế hoạch, tăng 11,59% so cùng kỳ năm trước. * Doanh thu dịch vụ khác: Tháng Bảy ước đạt 988,21 tỷ đồng, tăng 1,71% so với tháng trước. Một số nhóm doanh thu dịch vụ tăng nhẹ như: dịch vụ kinh doanh bất động sản 409,30 tỷ đồng, chiếm 41,42%/Tổng doanh thu, tăng 0,30%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 2,77%; dịch vụ vui chơi, giải trí tăng 4,00%... Tính chung 7 tháng doanh thu các hoạt động dịch vụ ước thực hiện 6.740,15 tỷ đồng, đạt 58,61% so kế hoạch, tăng 12,21% so cùng kỳ năm trước. Đa số các hoạt động dịch vụ doanh thu đều tăng khá cao như: nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản ước đạt 2.102,19 tỷ đồng, chiếm 31,19%/Tổng doanh thu, tăng 7,57%; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 13,06%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 17,92%... b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu: Tháng Bảy dự tính đạt 55,84 triệu USD, tăng 18,23% so với tháng trước, tăng 2,18% so cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Hàng nông sản 22,55 triệu USD, tăng 36,58% so tháng trước; hàng thủy sản 14,28 triệu USD, tăng 10,19%; hàng hóa khác 19,01 triệu USD, tăng 51,33%. Tính chung 7 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện 326,91 triệu USD, đạt 62,87% kế hoạch năm, tăng 36,19% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Hàng nông sản 135,71 triệu USD, đạt 71,43% kế hoạch, tăng 43,96% so cùng kỳ; hàng thủy sản 95,28 triệu USD, đạt 45,37% kế hoạch, giảm 6,40% so cùng kỳ; hàng hóa khác là 94,55 triệu USD, đạt 78,79% kế hoạch, tăng 6,68 lần so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân xuất khẩu tháng này dự kiến tăng nhiều so với tháng trước là do các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã ký được những hợp đồng lớn với lượng gạo dự kiến lên trên 45 ngàn tấn, trị giá trên 22,5 triệu USD. Mặt hàng thủy hải sản cũng tăng so với tháng trước trên 10%. Các mặt hàng thủy hải sản dự kiến xuất khẩu tháng 07 như: Tôm đông dự kiến xuất 250 tấn, Mực đông 950 tấn, Cá đông 220 tấn, Hải sản đông khác 950 tấn, Cá cơm sấy 70 tấn. Riêng Giày da xuất 1.168 ngàn đôi, trị giá trên 16,7 triệu USD. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu: Tháng Bảy ước tính đạt 5 triệu USD, bằng 52,41% so tháng trước. Tính chung 7 tháng được 39,54 triệu USD, đạt 79,08% kế hoạch năm, giảm 7,05% so cùng kỳ năm 2017. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu dùng cho sản xuất gồm: thạch cao, giấy Kratp, hạt nhựa và sắt làm lưỡi câu mực, trục xoay câu mực... c. Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 07 năm 2018 giảm 1,14% so với tháng trước; tăng 4,11% so cùng tháng năm trước; tăng 2,86% so với tháng 12 năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 2 nhóm hàng tăng là: nhóm hàng hóa dịch vụ khác tăng 1,15%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,06%. Có 5 nhóm hàng giảm đó là nhóm hàng Thuốc và dịch vụ y tế giảm cao nhất -14,20%; nhóm giao thông giảm 0,60%; nhóm hàng Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,45%; nhóm hàng Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,14%; nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,01%; còn lại các nhóm hàng khác không thay đổi so với tháng trước. Chỉ số giá vàng: giảm so với tháng trước (-2,29%), so với cùng tháng năm trước tăng (+2,92%) và tăng (+6,34%) so với bình quân cùng kỳ. Giá vàng bình quân tháng 07/2018 là 3.503.000 đồng/chỉ, giảm 82.000 đồng/chỉ so với tháng trước. Chỉ số giá Đô la Mỹ: tăng so với tháng trước (+1,16%), so với cùng tháng năm trước tăng (+1,94%). Giá USD bình quân tháng 07/2018 là 23.246 đồng/1 USD, tăng 267 đồng/1 USD so với tháng 6/2018. d. Vận tải Vận tải hành khách: Tháng Bảy ước đạt 6,7 triệu lượt khách, giảm 4,21% so tháng trước; luân chuyển 422,61 triệu HK.km, giảm 3,74% so tháng trước. Tính chung 7 tháng vận tải hành khách ước tính 46,52 triệu lượt khách, đạt 55,60% kế hoạch, tăng 6,03% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 3.075,66 triệu HK.km, đạt 62,88% kế hoạch, tăng 5,51% so cùng kỳ. Bao gồm: Vận tải hành khách đường bộ 37,88 triệu lượt khách, tăng 6,78% so cùng kỳ, luân chuyển 2.474,96 triệu lượt khách.km, tăng 5,89% so cùng kỳ; Vận tải hành khách đường sông 7,28 triệu lượt khách, tăng 1,89%, luân chuyển 454,60 triệu lượt khách.km, tăng 3,00%; Vận tải hành khách đường biển 1,35 triệu lượt khách, tăng 8,56%, luân chuyển 146,09 triệu lượt khách.km, tăng 7,06% so cùng kỳ. Vận tải hàng hóa: Tháng Bảy ước đạt 886 ngàn tấn, giảm 3,28% so tháng trước; luân chuyển 121,32 triệu tấn.km, giảm 3,37% so tháng trước. Tính chung 7 tháng vận tải hàng hóa ước tính 6,45 triệu tấn, đạt 54,94% kế hoạch năm, tăng 6,01% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 867,37 triệu tấn.km, đạt 54,35% kế hoạch, tăng 6,00% so cùng kỳ. Bao gồm: Vận tải hàng hóa đường bộ 2,03 triệu tấn, tăng 6,62% so cùng kỳ, luân chuyển 280,72 triệu tấn.km, tăng 6,98%; Vận tải hàng hóa đường sông 2,55 triệu tấn, tăng 3,77%, luân chuyển 321,05 triệu tấn.km, tăng 3,86% so với cùng kỳ; Vận tải hàng hóa đường biển 1,87 triệu tấn, tăng 8,53%, luân chuyển 265,59 triệu tấn.km, tăng 7,65% so cùng kỳ. e. Du lịch Tổng lượt khách du lịch tháng Bảy ước đạt 809,12 ngàn lượt khách, tăng 2,87% so tháng trước, trong đó: Số lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch, đạt 357,14 ngàn lượt khách, tăng 1,47% so với tháng trước; số khách quốc tế 57,50 ngàn lượt khách, tăng 18,45%. Khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch bao gồm: Số lượt khách từ cơ sở lưu trú du lịch phục vụ 339,32 ngàn lượt khách, tăng 1,60% so tháng trước và số lượt khách du lịch đi theo tour 17,81 ngàn lượt khách, giảm 0,92% so tháng trước. Tính từ đầu năm, tổng lượt khách du lịch ước tính đạt 4.748,43 ngàn lượt khách, đạt 66,88% kế hoạch năm, tăng 21,28% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch 2.010,21 ngàn lượt khách, tăng 19,50% so cùng kỳ. Số khách quốc tế 373,90 ngàn lượt khách, tăng 67,26% so với cùng kỳ. Khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch bao gồm: khách cơ sở lưu trú du lịch phục vụ 1.905,72 ngàn lượt khách, tăng 19,39% và khách du lịch đi theo tour đạt 104,49 ngàn lượt khách, tăng 21,66% so cùng kỳ. 7. Một số tình hình xã hội 7.1. Lao động, việc làm: Tháng 7/2018 toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 2.937 lượt lao động, trong đó: trong tỉnh 1.302 lượt lao động, ngoài tỉnh 1.593 lượt lao động, xuất khẩu 42 lao động; Tính chung đầu năm đến nay là 22.909 lượt lao động, đạt 65,45% so kế hoạch (trong tỉnh 10.664 lượt lao động; ngoài tỉnh 12.147 lượt lao động; xuất khẩu 98 lao động). Cấp 22 Giấy phép lao động, trong đó: cấp mới 18, cấp lại 02, xác nhận 02. Tính chung từ đầu năm cấp mới 75, cấp lại 18, xác nhận lại 32 giấy phép. Công tác đào tạo nghề: Trong tháng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo được 1.470 người, nâng tổng số lao động được đào tạo lên 13.020 người đạt 52,08% so kế hoạch, trong đó Cao đẳng 189 người, Trung cấp 343, Sơ cấp 9.532 người và dạy nghề thường xuyên 2.956 người. Công tác Chính sách – Người có công Thực hiện Quyết định số 1079/QĐ-CTN ngày 29/6/2018 của Chủ tịch nước về tặng quà nhân dịp kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh liệt sĩ. UBND tỉnh chuẩn bị 21.566 suất quà với kinh phí 4.490 triệu đồng (Trung ương 3.607,6 triệu đồng, Địa phương 883,2 triệu đồng) trong đó: 152 suất quà do lãnh đạo tỉnh tổ chức các Đoàn đi thăm trực tiếp gia đình chính sách trên địa bàn tỉnh với kinh phí 152 triệu đồng. Tổ chức Lễ truy điệu, an táng hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Campuchia đợt 21 năm 2018 ; tổng số hài cốt liệt sĩ quy tập trong mùa khô năm 2017 - 2018 là 66 hài cốt liệt sỹ (trong đó: quy tập tại Campuchia là 57 bộ hài cốt, quy tập trong tỉnh là 09 hài cốt. 7.2. Tình hình giáo dục: Giáo dục Mầm non: Thành lập tổ kiểm tra, khảo sát nhóm, lớp mầm non tư thục thuộc địa bàn thành phố Rạch Giá, Gò Quao, Châu Thành. Phối hợp với Hội LHPN tỉnh tham gia tổ kiểm tra, khảo sát các nhóm, lớp tư thục thuộc khu công nghiệp, khu chế xuất theo kế hoạch của Ban điều hành dự án 404 của tỉnh. Tham dự Hội nghị tổng kết thi đua khối 8, năm học 2017-2018 tại huyện Hòn Đất, thực hiện theo dõi các lớp bồi dưỡng chuyên môn trong hè. Giáo dục tiểu học: Phối hợp các đơn vị liên quan kiểm tra công tác tuyển sinh lớp 6 trên địa bàn thành phố Rạch Giá, kiểm tra chuyên đề quản lí giáo dục tiểu học hè 2018 tại huyện An Minh, An Biên và Tân Hiệp. Công bố 93 cơ sở giáo dục mầm non đã được Ủy ban nhân dân cấp huyện công nhận đạt tiêu chuẩn “Trường học an toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích” năm học 2017- 2018”. Phối hợp với Công ty Ajinomoto Việt Nam tổ chức Hội nghị triển khai phần mềm “Xây dựng thực đơn cân bằng dinh dưỡng” thuộc dự án bữa ăn học đường dành cho các trường tiểu học bán trú trong tỉnh. Tham mưu chỉ đạo công tác huy động học sinh 6 tuổi vào học lớp 1 năm học 2018- 2019. Giáo dục trung học: Phối hợp trường Đại học Sư phạm TPHCM tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và nâng cao năng lực cho giáo viên tiếng Anh theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam (chương trình Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020). Tham gia Vòng chung kết Giải Bóng đá HKPĐ học sinh Tiểu học và THCS toàn quốc Cúp Milo lần thứ XVI năm 2018 tại Quảng Trị , kết quả đội HS Tiểu học Kiên Giang đạt giải nhất toàn quốc. Rà soát các điều kiện chuẩn bị thí điểm giáo dục STEM tại 02 trường THCS Lê Quý Đôn và THPT Nguyễn Trung Trực từ năm học 2018-2019. Tham gia Hội đồng chấm thi kỳ thi THPT quốc gia năm 2018 và Ban chấm phúc khảo tuyển sinh lớp 10. Hoàn thành công tác tuyển sinh lớp 6, 10 THPT năm học 2018-2019. Khảo thí và Kiểm định Chất lượng giáo dục: Tổng hợp, báo cáo công tác xét tốt nghiệp THCS năm học 2017-2018. Tổ chức phúc khảo tuyển sinh lớp 10 năm học 2018- 2019 và hoàn thành hồ sơ đưa vào lưu trữ. Báo cáo kết quả xét công nhận tốt nghiệp THPT sơ bộ về Bộ GDĐT; công bố kết quả tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2018. Tổ chức chấm phúc khảo thi THPT quốc gia năm 2018 theo quy định. Tổ chức tư vấn tuyển sinh cho các đơn vị và học sinh sau khi có kết quả thi THPT quốc gia. Thẩm tra, chỉnh sửa, cấp phát văn bằng chứng chỉ theo quy định. 7.3. Tình hình văn hóa, nghệ thuật, thể thao: Trong tháng đã tập trung tuyên truyền, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao phục vụ các nhiệm vụ chính trị, nhất là kỷ niệm 71 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2018); 89 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2018). Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất tổ chức Hội diễn Văn nghệ và Duyên dáng tỉnh Kiên Giang năm 2018. Đặc biệt, tập trung tổ chức thành công 16/18 môn thể thao trong khuôn khổ Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Kiên Giang, lần thứ VIII năm 2018. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa: Trong tháng, Bảo tàng tỉnh đã phục vụ 406 lượt khách đến tham quan, trong đó có 23 lượt khách nước ngoài; sưu tầm và tiếp nhận 23 hiện vật từ các nhà sưu tập tư nhân trên địa bàn thành phố Rạch Giá; hoàn chỉnh đề cương sưu tầm cho Trung tâm Triển lãm văn hóa nghệ thuật và Bảo tồn di sản văn hóa tỉnh. Ban Quản lý di tích tỉnh tiếp tục thực hiện Đề án nghiên cứu Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa, thực hiện công tác lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Ok-Om-Bok. Tổ chức kiểm tra di tích ở các huyện Hòn Đất, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên. Thể dục thể thao quần chúng: Tổ chức thi đấu 03 giải thể thao trong khuôn khổ Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Kiên Giang, lần thứ VIII năm 2018 như: Giải Việt dã (với 400 vận động viên đến từ 20 đơn vị trong tỉnh), Giải Taekwondo (với 188 vận động viên đến từ 13 CLB thuộc các huyện, thành phố trong tỉnh), Giải Vovinam (với gần 200 vận động viên đến từ 18 CLB thuộc các huyện, thành phố trong tỉnh). Tính đến ngày 17/7/2018, đã tổ chức 16/18 môn thể thao trong khuôn khổ Đại hội, kết quả hiện tại: Đối với Khối các huyện, thị xã, thành phố: huyện Gò Quao hạng nhất (21 HCV, 11 HCB và 08 HCĐ), Châu Thành hạng nhì (20 HCV, 19 HCB và 24 HCĐ), Hòn Đất hạng ba (19 HCV, 16 HCB và 09 HCĐ); Đối với Khối các cơ quan, doanh nghiệp: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh hạng nhất (01 HCV và 01 HCB), Công an tỉnh hạng nhì (07 HCB và 05 HCĐ), Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật hạng ba (01 HCB). Thể thao thành tích cao: Các đội tuyển thể thao duy trì tập luyện thường xuyên theo kế hoạch; đồng thời tham dự các giải như Giải Cờ vua các nhóm tuổi Đông Nam Á tại thành phố Davao - Philippines, Giải Vô địch Cờ vua trẻ toàn quốc tại Hải Phòng, Giải Vô địch Bắn cung trẻ quốc gia tại Hà Nội, Giải Bóng chuyền bãi biển nữ tour 2 tại Bình Định, Giải Điền kinh quốc tế mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh mở rộng, Giải Vô địch Điền kinh trẻ quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả đạt 10 huy chương gồm 06 HCV và 04 HCB. 7.4. Tình hình y tế Trong tháng, các cơ sở y tế trong tỉnh đã khám, điều trị bệnh cho 414.254 lượt người; điều trị nội trú 21.089 bệnh nhân; công suất sử dụng giường bệnh chung là 84,48%; Tỷ lệ khỏi bệnh 89,94%, tỷ lệ tử vong 0,13%. Số lượt khám chữa bệnh bằng Y Học Cổ truyền hoặc kết hợp YH hiện đại và YHCT là 55.514 lượt, chiếm 14,62 %/ tổng số lượt khám chữa bệnh trong tháng. Tình hình dịch bệnh trong tháng (từ ngày 16/06/2018 – 15/07/2018) Bệnh Sốt xuất huyết: Toàn tỉnh ghi nhận có 181 cas mắc, giảm 40 cas so với tháng trước. Tích lũy từ đầu năm đến nay có 813 cas mắc, không có tử vong; so với cùng kỳ năm 2017 tăng 152 cas. Bệnh Tay Chân Miệng: Toàn tỉnh có 44 cas mắc, tăng 11 cas so với tháng trước. Tích lũy số mắc từ đầu năm đến nay là 256 cas mắc, không có tử vong; so với cùng kỳ năm 2017 giảm 373 cas. Các bệnh truyền nhiễm khác: Bệnh truyền nhiễm có xu hướng giảm cụ thể số cas mắc trong tháng/lũy kế từ đầu năm như sau: Tả (0/0), Thương hàn (3/39), Viêm não virus (1/10), Viêm màng não do NMC (0/0), Cúm A H5N1 (0/0), Sởi (0/0). Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng thực hiện xét nghiệm 7.253 mẫu máu, phát hiện mới 11 cas HIV dương tính, tính chung 7 tháng đã phát hiện mới 81 cas HIV dương tính. Điều trị ARV cho 22 bệnh nhân HIV/AIDS, trong đó có 06 trẻ em dưới 15 tuổi. Tích lũy số bệnh nhân điều trị ARV là 1.615 người, trong đó có 99 trẻ dưới 15 tuổi. Tính đến thời điểm báo cáo, số người còn sống ở địa phương nhiễm HIV là 2.579 người, trong giai đoạn AIDS là 1.678 người. Số người điều trị Methadone mới trong tháng là 09 người, lũy kế có 111 người đang điều trị. Phòng, chống các bệnh xã hội và bệnh nguy hiểm cho cộng đồng Trong tháng phát hiện 01 BN phong, 191 BN lao, 09 BN tâm thần phân liệt và 08 BN động kinh. Lũy kế từ đầu năm phát hiện 03 BN phong, 1.456 BN lao, 29 BN tâm thần phân liệt và 29 BN động kinh. Điều trị khỏi bệnh 195 BN lao, lũy kế số điều trị khỏi bệnh lao là 1.364 người. Số quản lý đến nay là 407 BN phong, 4.138 BN lao, 2.171 BN tâm thần phân liệt và 2.708 BN động kinh. Công tác vệ sinh An toàn thực phẩm: Đã thẩm định, cấp 38 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, ký 219 Bản cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. Thực hiện thanh tra, kiểm tra 1.382 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, trong đó có 226 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP, qua đó đã nhắc nhở 224 cơ sở và hướng dẫn thêm cho các cơ sở hoàn thành tốt việc đảm bảo VSATTT tại cơ sở. Đã xử lý 02 cơ sở với hình thức phạt tiền. Trong tháng không có vụ ngộ độc thực phẩm tập thể nào xảy ra, có 13 cas ngộ độc thực phẩm mắc lẻ (do ngộ độc của cồn là chủ yếu). 7.5. Tình hình an toàn giao thông: Tính từ ngày 16/6/2018 đến 15/7/2018 trên toàn tỉnh xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông, làm 09 người chết, 08 người bị thương. Trong đó: Số vụ TNGT nghiêm trọng 10 vụ, làm 09 người chết, 04 người bị thương. So với tháng trước số vụ TNGT giảm 04 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương giảm 03 người. Tính từ đầu năm, xảy ra 123 vụ tai nạn giao thông, làm 85 người chết, 76 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, giảm 07 vụ; tăng 19 người chết và giảm 13 người bị thương, trong đó số vụ tai nạn nghiêm trọng giảm 02 vụ nhưng tăng 19 người chết. Tình hình tai nạn giao thông từ đầu năm đến nay tuy có giảm số vụ, nhưng lại tăng số vụ tai nạn rất nghiêm trọng (02 vụ, 06 người chết), dẫn đến số người chết tăng rất cao (tăng 19 người) so với cùng kỳ năm 2017, nguyên nhân chủ yếu là do ý thức của một số người khi tham gia giao thông không tuân thủ quy định an toàn giao thông như lấn đường, sử dụng rượu bia, không chú ý quan sát…các ngành chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền kết hợp với thường xuyên tuần tra, kiểm soát trên các tuyến đường Quốc lộ nhằm nâng cao ý thức tự giác chấp hành luật lệ khi tham gia giao thông của người dân hơn nữa để phòng ngừa và giảm thiểu tai nạn giao thông trong thời gian tới. 7.6. Tình hình cháy, nổ và thiên tai Tình hình cháy nổ: Từ ngày 16/06/2018 đến 15/07/2018 toàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy, thiệt hại do cháy gây ra ước tính 20 triệu đồng, không có thiệt hại về người. Có 01 vụ nổ xảy ra, làm bị thương 02 người. Nguyên nhân gây nổ chưa xác định, đang trong quá trình điều tra. Tính chung từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 20 vụ cháy, 02 vụ nổ, làm 02 người thiệt mạng, 02 người bị thương. Thiệt hại ước tính trên 4,6 tỷ đồng. Tình hình thiên tai: Từ ngày 16/6 đến 15/7/2018, do ảnh hưởng của những đợt áp thấp và gió mùa tây nam cũng như cơn bão số 3 (Sontinh), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra những cơn mưa lớn kèm giông, lốc xoáy trên diện rộng đã làm sập 29 căn nhà, tốc mái 74 căn nhà và nhiều cây xanh ở thành phố Rạch Giá bị ngã đổ, đặt biệt tại huyện U Minh Thượng có một trụ điện bị ngã đổ làm 01 người chết do bị điện giật; ước thiệt hại 1,3 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng, thiên tai đã làm 01 phương tiện bị chìm, 02 người chết, 01 người bị thương, sập 64 căn nhà, tốc mái 140 căn nhà, ước thiệt hại về vật chất là 2, 7 tỷ đồng. Ngoài ra, do giông lốc làm hư hỏng 14 lồng bè nuôi cá, 2 chiếc ghe, 2 chiếc xuồng và 01 giàn lưới đánh bắt hải sản. Ước thiệt hại 1,2 tỷ đồng. Các cấp chính quyền đã kịp thời đến thăm hỏi, động viên và hỗ trợ tiền và hiện vật cho những gia đình bị nạn để bà con khắc phục khó khăn trước mắt, ổn định cuộc sống lâu dài./. Tải về: - Số liệu kinh tế xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2018 của tỉnh Kiên Giang
Số lần đọc: 1778
Cục Thống kê Kiên Giang |
Tin liên quan
|