02.12.2015
Năm 2015 kinh tế thế giới dự báo tăng trưởng chậm và không ổn định, các nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Anh, Nhật tăng trưởng thấp do tác động giá dầu giảm liên tục trong năm.., riêng nền kinh tế Nga đang rơi vào thời kỳ suy thoái; các nền kinh tế Đông Âu chỉ tăng nhẹ do sự ảnh hưởng của nền kinh tế Nga; sự bất ổn chính trị tiếp tục ở Trung Đông và Bắc Phi, căng thẳng tranh chấp trên biển Hoa Đông và Biển Đông là yếu tố gây cản trở tăng trưởng kinh tế thế giới.
Trong nước, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, tăng trưởng kinh tế cao hơn mức dự báo, lạm phát ở mức thấp, chỉ số giá tiêu dùng ít biến động... môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho lĩnh vực kinh doanh và đầu tư với lãi suất và chi phí đầu vào đều ở mức thấp, Nhiều doanh nghiệp FDI lớn tiếp tục có xu hướng dịch chuyển vào Việt Nam để tận dụng các ưu đãi chính sách, nhân công và nguyên nhiên liệu giá rẻ, cũng như đón đầu cơ hội tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP) và hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do khác giữa Việt Nam và các nước. Khu vực này sẽ tiếp tục đóng góp đáng kể về cả kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng GDP trong 2015. Trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội tuy có những thuận lợi cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, song Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp theo Nghị quyết của Chính phủ: Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh trên cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ bản, thu hút đầu tư….. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 của tỉnh tiếp tục ổn định và đạt được kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực. Kết quả đạt được trên từng lĩnh vực như sau: A. VỀ KINH TẾ 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2015 (giá so sánh 2010) ước tính tăng 9,62% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng GRDP năm nay tăng cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước.
Mức tăng và mức đóng góp của từng khu vực kinh tế năm 2015 trong mức tăng chung của nền kinh tế như sau: + Khu vực I: Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,17%, đóng góp cho tăng trưởng chung 1,60 điểm % (cùng kỳ năm 2014 tăng 6,31%, đóng góp cho tăng trưởng chung 2,48 điểm %). + Khu vực II: Công nghiệp và xây dựng tăng 13,04%, đóng góp cho tăng trưởng chung 3,15 điểm % (cùng kỳ năm 2014 tăng 10,49%, đóng góp cho tăng trưởng chung 2,53 điểm %). + Khu vực III: Dịch vụ tăng 13,00%, đóng góp cho tăng trưởng chung 4,87 điểm % (cùng kỳ năm 2014 tăng 12,34%, đóng góp cho tăng trưởng chung 4,45 điểm %). Số liệu trên cho thấy: Khu vực dịch vụ năm nay tăng cao hơn năm trước 0,66% đóng góp phần lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trong đó, những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng như: ngành bán buôn, bán lẻ sửa chữa ô tô mô tô chiếm 34,34%, tăng 12,23%; ngành hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng 15,41%, tăng 15,86%; dịch vụ lưu trú – ăn uống chiếm tỷ trọng 7,26%, tăng 8,68%; ngành vận tải kho bãi chiếm 10,26%, tăng 9,58% cao hơn năm trước... Khu vực công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng cao so cùng kỳ, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo chiếm 66,40%, tăng 12,10%, tăng rất cao so cùng kỳ (năm 2014 tăng 3,29%); ngành xây dựng chiếm 28,62%, tăng 16,21%, thấp hơn cùng kỳ (tăng 17,28%); các ngành đạt mức tăng thấp hơn mức tăng chung như: sản xuất phân phối điện tăng 7,71%; ngành khai khoáng tăng 8,13%... Khu vực nông, lâm, thủy sản có mức tăng và đóng góp tăng trưởng giảm so cùng kỳ và tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng có xu hướng thấp hơn, trong đó ngành nông nghiệp chiếm 65,85%, tăng 3,32%, cao hơn cùng kỳ năm trước, nguyên nhân do sản lượng lúa năm nay so cùng kỳ chỉ tăng 108,22 ngàn tấn; ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản chiếm 33,46%, tăng 5,95%, giảm so cùng kỳ năm 2014, nguyên nhân do sản lượng tôm thẻ chân trắng năm nay giảm nhiều so với năm trước. Tăng trưởng kinh tế ước năm 2015 của tỉnh cho thấy: tốc độ tăng trưởng GRDP tuy chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết, nhưng tăng cao hơn so năm 2014. Mặc dù nhịp độ tăng trưởng kinh tế trên cả ba khu vực diễn ra không đều, trong đó: Sự phục hồi của nền kinh tế chủ yếu do khu vực công nghiệp và xây dựng và khu vực dịch vụ là chính, Riêng khu vực nông, lâm, thủy sản gặp nhiều khó khăn do đó tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức tăng trưởng vừa phải đã giúp cho nền kinh tế tỉnh ta trên đà chuyển hướng về cơ cấu kinh tế. 2. Tài chính, ngân hàng 2.1. Thu, chi ngân sách Nhà nước Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2015 ước thực hiện 6.720 tỷ đồng, đạt 122,0% so dự toán HĐND tỉnh giao và tăng 34,46% so cùng kỳ năm trước, đa số các khoản thu ngân sách đều đạt và vượt dự toán HĐND tỉnh giao, cụ thể như: Các khoản thu nội địa được 4.400 tỷ đồng, đạt 125,57% dự toán, tăng 19,29% so cùng kỳ. Trong đó, có những khoản thu đạt cao so với dự toán năm như: Thu tiền sử dụng đất 1.150 tỷ vượt 91,67% dự toán và tăng gần 13,50% so cùng kỳ; Thuế bảo vệ môi trường 280 tỷ vượt 33,33% dự toán và tăng 74,52% so cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân 440 tỷ vượt 33,33% dự toán và tăng 37,27% so cùng kỳ ; Thu thuế CTN ngoài nhà nước 1.180 tỷ vượt 3,51% dự toán và tăng 26,79% so cùng kỳ... Nguyên nhân thu ở một số khu vực, sắc thuế đạt được như trên là do ngành thuế đã khai thác, quản lý tốt nguồn thu, đồng thời do triển khai tốt công tác thu nợ năm trước chuyển sang, thu phát sinh thuế thu nhập do chuyển quyền bất động sản….nên năm 2015 thu ngân sách đạt khá so với dự toán HĐND tỉnh giao. Tổng chi ngân sách địa phương: Chi ngân sách địa phương năm 2015 ước thực hiện 11.934,43 tỷ đồng, đạt 115,76% dự toán và tăng 25,23% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chi đầu tư phát triển 2.774,44 tỷ đồng đạt 127,47% so dự toán và tăng 7,98% so cùng kỳ; chi thường xuyên 6.356,08 tỷ đồng, đạt 113,85% dự toán năm và tăng 9,62% so cùng kỳ. Chi ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ theo dự toán được giao và tiến độ thực hiện, đảm bảo thanh toán đầy đủ và kịp thời các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, các chính sách an sinh xã hội…trên địa bàn tỉnh. 2.2. Ngân hàng Ngành Ngân hàng đã triển khai kịp thời, có hiệu quả các cơ chế chính sách về tiền tệ và giải pháp tiền tệ, tín dụng phù hợp với tình hình địa phương như: Chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, cho vay hỗ trợ thủy sản theo NĐ 67/2014/NĐ-CP, chính sách cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tạm trử lúa gạo, chính sách cho vay hộ mới thoát nghèo.... Nguồn vốn huy động tại địa phương tăng khá, chất lượng tín dụng được kiểm soát; cơ cấu tín dụng tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên vay như: nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, tuy nhiên trước những diễn biến phức tạp của thị trường, năng lực tiêu thụ vốn của các doanh nghiệp thấp dẫn đến việc cấp tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn; chủ động điều chỉnh giảm lãi suất huy động và cho vay theo sát tình hình; thị trường tiền tệ, kinh doanh vàng ổn định, an toàn. Tuy nhiên do tình hình xuất khẩu còn khó khăn nên dư nợ cho vay tăng chậm, tốc độ cho vay đối với các chương trình tín dụng còn chậm (theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP, vay theo Quyết định 68/QĐ-TTg); dư nợ đầu tư vào các dự án mới chưa nhiều và nợ xấu được kiểm soát trong phạm vi an toàn, nhưng đang có nguy cơ gia tăng, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có chuyển biến tích cực, nhưng tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn lớn. Tổng nguồn vốn hoạt động năm 2015 ước đạt 50.850 tỷ đồng, đạt 108,65% kế hoạch năm và tăng 16,27% so cùng kỳ năm trước (tăng 7.113,58 tỷ đồng). Trong đó: vốn huy động tại địa phương 28.600 tỷ đồng, đạt 112,60% kế hoạch và tăng 19,81% so với cùng kỳ, chiếm 56,24% trong tổng nguồn vốn; vốn vay 15.800 tỷ đồng, tăng 14,67% so cùng kỳ năm trước, chiếm 31,07% tổng nguồn vốn hoạt động. Doanh số cho vay ước thực hiện năm 2015 đạt 79.000 tỷ đồng, đạt 100,89% so với kế hoạch, tăng 8,56% so cùng kỳ năm trước, trong đó: cho vay SXKD là 61.620 tỷ đồng chiếm 78%/ tổng doanh số. Bao gồm: doanh số cho vay ngắn hạn 56.100 tỷ đồng, đạt 84,62% kế hoạch năm, tăng 8,61% so cùng kỳ năm trước và doanh số cho vay trung và dài hạn 22.900 tỷ đồng, đạt 190,83% kế hoạch, tăng 8,42% so với cùng kỳ. Trong doanh số cho vay, khu vực I chiếm 21,52%; khu vực II chiếm 20,88% và khu vực III chiếm 57,60% trong tổng doanh số cho vay. Hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu được tiếp tục tập trung vào hai mặt hàng chủ lực của tỉnh, tuy nhiên do diễn biến phức tạp của thị trường, năng lực hấp thụ vốn của các doanh nghiệp dẫn đến việc cấp tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu còn hạn chế, cho vay xuất khẩu đạt 3.075 tỷ đồng, giảm 6,62% so cùng kỳ ( trong đó cho vay xuất khẩu gạo giảm 40,75%, thủy sản tăng 49,67%). Cho vay theo Nghị định 67 hiện toàn tỉnh có 49 tàu được UBND tỉnh phê duyệt đủ điều kiện thụ hưởng và có 3 tàu được ký hợp đồng tín dụng với số tiền cho vay 20,6 tỷ đồng, đã giải ngân được 14,7 tỷ đồng, hiện có 2 tàu đã hạ thủy. Dư nợ cho vay 37.800 tỷ đồng, đạt 101,61% kế hoạch và tăng 13,14% so cùng kỳ năm trước (tăng 4.391 tỷ đồng). Bao gồm: Dư nợ cho vay ngắn hạn là 20.400 tỷ đồng, tăng 15,80% so cùng kỳ; chiếm tỷ trọng 53,97%/ tổng dư nợ. Dư nợ cho vay trung và dài hạn 17.400 tỷ đồng, tăng 10,18% so cùng kỳ. Dư nợ cho vay khu vực I: 11.460 tỷ đồng, chiếm 30,32% trong tổng dư nợ; khu vực II: 6.300 tỷ đồng, chiếm 16,67%; khu vực III: 20.040 tỷ đồng chiếm 53,01%. Các Ngân hàng đã kiểm soát được nợ xấu, chiếm tỷ lệ 1,98% trên tổng dư nợ cho vay. 3. Đầu tư và xây dựng: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước thực hiện cả năm là 40.517,89 tỷ đồng, đạt 117,14% kế hoạch, tăng 27,16% so cùng kỳ. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 4.704.5 tỷ đồng, đạt 95,02% kế hoạch, tăng 63,96% so cùng kỳ; vốn đầu tư của Bộ ngành quản lý 3.664.49 tỷ đồng, đạt 146,58% kế hoạch; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 417 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, bằng 86,88% so cùng kỳ; vốn ngoài nhà nước của doanh nghiệp, hộ dân cư, hộ kinh tế cá thể 28.908,9 tỷ, đạt 118,70% kế hoạch, tăng 54,82% so cùng kỳ. Tình hình thực hiện đầu tư vào khu kinh tế năm 2015: ước thực hiện tổng giá trị đầu tư vào các khu công nghiệp đạt: 1.294 tỷ đồng (Vốn NS địa phương 4,49 tỷ, vốn nhà đầu tư 1.290 tỷ) để thực hiện nhiệm vụ thi công xây dựng hạ tầng, điều chỉnh quy hoạch chi tiết KCN và lập thủ tục, san lắp mặt bằng thi công xây dựng các nhà máy sản xuất kinh doanh trong các khu công nghiệp trên địa bàn. Lũy kế từ khi triển khai đến nay đạt 1.964,46 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ có mục tiêu của TW 112 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 95,85 tỷ đồng, vốn nhà đầu tư 1.754 tỷ đồng, chiếm 89,29%/tổng giá trị đầu tư. Tại khu công nghiệp Thạnh Lộc, hiện tại có 11 dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư và đang triển khai, các nhà đầu tư tích cực triển khai thực hiện thi công san lắp mặt bằng, xây dựng nhà máy với tổng trị giá đã thực hiện là 1.264,43 tỷ đồng (Cụ thể: Dự án Nhà máy Bia Sài Gòn – KG đầu tư 430,2 tỷ đồng, hiện đã đi vào hoạt động dịp lễ 30/4; dự án nhà máy chế biến gỗ MDF đang gấp rút thi công các hạng mục giai đoạn cuối dự kiến cuối tháng 12 sẽ đi vào hoạt động, đã đầu tư 667 tỷ đồng; nhà máy giày TBS-KG đầu tư 116 tỷ đồng và nhà máy cấp nước Thạnh Lộc đầu tư 36,5 tỷ đồng dự kiến cuối năm sẽ hoạt động SXKD) Nhìn chung, việc các nhà máy lớn đang được đầu tư và đã đi vào hoạt động có doanh thu và thực hiện nghĩa vụ thuế nhà nước (trên 100 tỷ đồng) vào khu công nghiệp Thạnh Lộc đã tạo nên hiệu ứng tốt, làm các nhà đầu tư khác có niềm tin hơn khi tham gia đăng ký đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn. Tuy nhiên, giá trị đầu tư vào các khu công nghiệp khác, khu kinh tế cửa khẩu Hà Tiên…vẫn còn hạn chế, việc thi công các hạng mục hạ tầng trong khu công nghiệp Thạnh Lộc còn chậm, chưa đúng tiến độ theo hợp đồng dẫn đến thực hiện vốn giải ngân nguồn vốn ngân sách nhà nước theo kế hoạch đã được phân bổ còn chậm, chỉ có khu công nghiệp Thạnh Lộc có nhiều dự án triển khai, nhưng các khu công nghiệp khác và khu kinh tế cửa khẩu Hà Tiên chưa có sự chuyển biến gì nhiều. Từ đầu năm đến nay, tỉnh Kiên Giang đã triển khai thi công nhiều công trình có ý nghĩa thiết thực phục vụ dân sinh xã hội như: khởi công xây dựng 3 công trình trọng điểm gồm: Bệnh viện đa khoa mới tỉnh Kiên Giang, Trường cấp 2-3 Võ Văn Kiệt và khu đô thị lấn biển Tây Rạch Giá. Bệnh viện đa khoa mới tỉnh Kiên Giang được khởi công xây dựng tại khu đô thị mới Phú Cường có quy mô 1.200 giường là công trình dân dụng cấp 1, được xây dựng đầu tư mới về cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ hiện đại ngang tầm với bệnh viện khu vực cấp vùng và trong nước. Trường học THPT Võ Văn Kiệt có quy mô 2 ha gồm: 47 phòng học, 8 phòng học bộ môn, 1 nhà hiệu bộ, 1 nhà tập đa năng, 2 ký túc xá, đảm bảo chỗ học cho 2.000 ngàn học sinh THCS và THPT với tổng vốn đầu tư 112 tỷ đồng. Dự án Khu đô thị mới lấn biển Tây Bắc thành phố Rạch Giá được xây dựng với tổng diện tích gần 100 ha. Dự án được đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách với tổng mức đầu tư 1.344 tỷ đồng, do Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Kiên Giang làm chủ đầu tư với thời gian triển khai thực hiện dự án là 6 năm, thời gian đầu tư khai thác dự án trong 10 năm. Đầu tháng 9/2015 tại ấp Xẻo Nhàu (xã Tân Thạnh, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và UBND tỉnh Kiên Giang chính thức khởi công dự án Cấp điện lưới quốc gia cho xã đảo Lại Sơn. Công trình có đoạn đường dây 110 KV trên không vượt biển dài trên 24,5km, lần đầu tiên được xây dựng tại vùng biển Kiên Giang. Khi đi vào vận hành, công trình có khả năng cung cấp sản lượng điện thương phẩm lên tới hàng trăm triệu kWh mỗi năm. Đồng thời đã khởi công dự án cáp treo và quần thể khu vui chơi giải trí biển Hòn Thơm - Phú Quốc được Tập đoàn Sun Group đầu tư. Hệ thống cáp treo này sẽ nối liền thị trấn An Thới với đảo Hòn Thơm, huyện đảo Phú Quốc, với tổng vốn đầu tư giai đoạn một của dự án là 4.900 tỷ đồng. Cáp treo Hòn Thơm sẽ có 6 trụ, được xây dựng băng qua các đảo Hòn Dừa và Hòn Rỏi, trong đó trụ cao nhất là 160m. Vận tốc của cáp đạt 8,5m một giây, công suất đạt 3.500 khách một giờ. Cả tuyến cáp có 70 cabin, mỗi cabin chở được khoảng 30 khách, tổng chiều dài cáp treo là 7.899,99m. 4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản (theo giá so sánh 2010) năm 2015 ước thực hiện 53.401 tỷ đồng, đạt 101,32% kế hoạch năm và tăng 4,41% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: nông nghiệp đạt 30.430,06 tỷ đồng, đạt 101,28% kế hoạch và tăng 3,32%; thủy sản 22.692,25 tỷ đồng, đạt 101,38% kế hoạch và tăng 5,95%. 4.1. Nông nghiệp * Về trồng trọt: Năm 2015, sản xuất lúa các vụ (Mùa, Đông xuân, Xuân hè, Hè thu, sơ bộ Thu đông) tổng diện tích gieo trồng 769.464 ha, đạt 101,09% so kế hoạch và tăng 2,02% so cùng kỳ. Diện tích thu hoạch được 767.649 ha, so kế hoạch đạt 100,85% (tăng 6.465 ha) và so với chính thức các vụ năm 2014 tăng 1,87% (tăng 14.087 ha). Diện tích sử dụng các giống lúa chất lượng cao chiếm 70%. Năng suất đạt 6,04 tấn/ha, so kế hoạch giảm 0,93% (giảm 0,06 tấn/ha) và so năm trước tăng 0,72% (tăng 0,04 tấn/ha). Tổng sản lượng là 4.640.373 tấn, bằng 99,91% kế hoạch (thấp hơn 4.037 tấn), tăng 2,39% (tăng 108.225 tấn) so năm 2014. Tóm lại, tổng sản lượng lúa năm nay tăng 2,39% so cùng kỳ, tức tăng 108.225 tấn là do 2 nguyên nhân: Thứ nhất là diện tích gieo trồng năm nay tăng 2,02% (tăng nhiều ở vụ Thu đông và vụ Đông xuân) làm cho tổng sản lượng lúa tăng lên 91.297 tấn; Thứ hai là năng suất lúa bình quân trên mỗi héc ta tăng 0,31 tạ/ha làm cho tổng sản lượng lúa tăng thêm 16.928 tấn. Kết quả từng vụ đạt được như sau: - Vụ Mùa: Diện tích gieo trồng được 62.956 ha, đạt 96,86% so kế hoạch năm (giảm 2.044 ha), so với vụ mùa năm trước giảm 88 ha (giảm 0,14%), do hiệu quả sản xuất vụ mùa đạt thấp nên nông dân chuyển sang trồng màu cũng như nuôi thủy sản và một số ít diện tích lúa ven biển huyện An Minh bị nhiểm mặn không gieo sạ được. Năng suất bình quân đạt 4,49 tấn/ha, so vụ mùa năm trước tăng 0,054 tấn/ha. Sản lượng đạt 283.256 tấn, bằng 95,78% kế hoạch (giảm 12.494 tấn) và tăng 2.992 tấn (tăng 1,07%) so với vụ mùa năm trước. - Vụ đông xuân: Diện tích gieo trồng được 307.344 ha, so với kế hoạch diện tích tăng 2.344 ha (vượt 0,77%) và so với vụ đông xuân năm trước tăng 1.487 ha. Diện tích vụ đông xuân năm nay tăng do một số địa phương như Kiên Lương, Hòn Đất nông dân chuyển đổi diện tích đất trồng rừng, đất vườn tạp, đất nuôi tôm kém hiệu quả sang trồng lúa. Năng suất đạt 7,23 tấn/ha, so với vụ đông xuân năm trước tăng 0,02 tấn/ha, Sản lượng đạt 2.224.468 tấn, vượt kế hoạch 1,01% (vượt 22.278 tấn) và tăng 16.819 tấn so vụ đông xuân năm trước. Nguyên nhân năng suất, sản lượng vụ đông xuân năm nay tăng nhẹ do thời tiết khí hậu thuận lợi, diện tích nhiễm sâu bệnh ít, nông dân áp dụng quy trình kỹ thuật, hệ thống thuỷ lợi phát huy hiệu quả.. - Vụ Xuân hè: Diện tích gieo trồng được 10.662 ha, tăng 1.229 ha so với vụ xuân hè năm trước. Năng suất 5,51 tấn/ha, tăng 0,171 tấn/ha so với vụ xuân hè năm trước. Sản lượng 58.733 tấn, so với vụ xuân hè năm trước tăng 8.386 tấn. - Vụ hè thu: Diện tích gieo trồng được 300.322 ha, đạt 99,71% kế hoạch (giảm 862 ha), so với vụ Hè thu năm trước giảm 50 ha. Diện tích gieo trồng vụ hè thu năm nay không đạt kế hoạch và chậm hơn so với lịch thời vụ, nguyên nhân do thời tiết nắng hạn kéo dài, nguồn nước bị nhiễm mặn không thể gieo trồng được. Đặc biệt có một số địa phương như huyện Kiên Lương, Giang Thành nông dân đã gieo trồng nhưng do không có nguồn nước bơm tưới nên lúa chết phải tiến hành gieo sạ lại lần hai trên 500 ha . Năng suất đạt 5,37 tấn/ha, so kế hoạch giảm 0,19 tấn/ha và tăng 0,008 tấn/ha so với vụ này năm trước. Sản lượng đạt 1.612.735 tấn, giảm 3,78% kế hoạch (giảm 63.337 tấn) và tăng 0,14% so vụ này năm trước (tăng 2.260 tấn). - Vụ Thu Đông (vụ 3): Diện tích gieo trồng 88.180 ha, đạt 97,98% kế hoạch (giảm 1.820 ha) và tăng 16,79% (tăng 12.675 ha) so với vụ Thu đông năm trước. Năng suất sơ bộ đạt 5,23 tấn/ha, so kế hoạch đạt 100,06%, so cùng kỳ tăng 0,15 tấn/ha. Sản lượng 461.181 tấn, so kế hoạch giảm 9.217 tấn và so vụ thu đông năm trước tăng 77.768 tấn. Năm nay diện tích gieo trồng vụ Thu Đông tăng nhiều ở tất cả các huyện như: Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao. - Cây rau màu và các cây trồng khác: Kết quả gieo trồng cây màu, cây công nghiệp và cây ăn quả trong năm 2015, đa số sản phẩm cho năng suất và sản lượng cao hơn cùng kỳ năm trước. Cụ thể: khoai lang thu hoạch hơn 16 ngàn tấn, tăng 4,09% so cùng kỳ; khoai mì hơn 29 ngàn tấn; dưa hấu hơn 24 ngàn tấn; mía hơn 400 ngàn tấn,; khóm 115,15 ngàn tấn, tăng 0,81%; hồ tiêu 1.875 tấn, tăng 18,22%.. với kết quả thu hoạch được và giá cả trong năm có chiều hướng ổn định, có một số mặt hàng như Tiêu, khoai lang giá cả có tăng hơn năm trước, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống của một bộ phân nông dân trong tỉnh. * Chăn nuôi: Tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh (theo kết quả điều tra 1/10/2015) đa số đều không đạt kế hoạch, nhưng có tăng hơn cùng kỳ năm trước. Đàn trâu được 5.955 con, bằng 91,62% kế hoạch năm và so với cùng kỳ giảm 332 con; Đàn bò:11.455 con, bằng 95,46% kế hoạch và tăng 6,31% (tăng 680 con); Đàn heo: 339.744 con, bằng 99,92% KH và tăng 1,54% (tăng 5.164 con); Đàn gia cầm 5.483 ngàn con, bằng 91,38% KH và tăng 1,16% (tăng 63 ngàn con), trong đó: đàn gà 2.125 ngàn con, tăng 8 ngàn con; đàn vịt 3.163 ngàn con, tăng 52 ngàn con so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân đàn bò, gia cầm tăng hơn cùng kỳ do nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, giá cả đầu ra ổn định nên người nuôi đã đầu tư tăng quy mô tái đàn và ngành Thú y đã chủ động tăng cường quản lý, kiềm chế được dịch bệnh. 4.2. Lâm nghiệp: Công tác chăm sóc và bảo vệ rừng được ngành chức năng quan tâm thường xuyên, cùng phối hợp với địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tích cực tuần tra, kiểm soát để ngăn chặn hành vi xâm hại đến diện tích rừng, xử lý kịp thời các vụ việc chặt phá rừng trái phép. Tuy nhiên vẫn còn xảy ra một số vụ vi phạm phá rừng phòng hộ ven biển ở các huyện (An Biên, An Minh, Kiên Lương …). Từ đầu năm đến nay, do thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài toàn tỉnh đã xảy ra 21 vụ cháy rừng (tăng 20 vụ so với năm trước), diện tích rừng bị cháy là 39,75 ha, tập trung chủ yếu ở huyện Phú Quốc 15 vụ, Giang Thành 03 vụ, Hòn Đất 01 vụ… Theo kết quả kiểm kê, diện tích đất lâm nghiệp hiện có là 86.292 ha, diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 68.618,8 ha. Độ che phủ rừng hiện nay là 10,8%, diện tích rừng được chăm sóc 372 ha, tăng 50 ha so cùng kỳ năm 2014. 4.3. Thủy sản: Giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh năm 2010) ước thực hiện năm 2015 là 22.692,24 tỷ đồng, đạt 101,38% kế hoạch năm và tăng 5,95% so cùng kỳ năm trước, trong đó: giá trị khai thác là 12.533,21 tỷ đồng, đạt 103,22% kế hoạch năm và tăng 4,78 % so cùng kỳ; Giá trị nuôi trồng là 10.159,03 tỷ đồng, đạt 99,19% kế hoạch năm và tăng 7,43% so cùng kỳ năm 2014. Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng cả năm ước thực hiện 677,24 ngàn tấn, đạt 104,65% kế hoạch năm và tăng 6,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá các loại 411,51 ngàn tấn, đạt 107,53% kế hoạch năm và tăng 6,57% so cùng kỳ; tôm các loại 92,23 ngàn tấn, đạt 96,58% kế hoạch năm và tăng 1,70% so cùng kỳ; mực 63,06 ngàn tấn, đạt 97,02% kế hoạch năm và tăng 6,38% so cùng kỳ. Bao gồm: Sản lượng khai thác ước thực hiện 493,82 ngàn tấn, đạt 106,89% kế hoạch năm và tăng 6,64% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá các loại 346,09 ngàn tấn, tăng 8,57%; tôm 40,02 ngàn tấn, tăng 1,95%; mực đạt 63,06 ngàn tấn, tăng 6,38% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng ước thực hiện 183,42 ngàn tấn, đạt 99,08% kế hoạch năm và tăng 5,98% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá nuôi các loại 65,41 ngàn tấn, đạt 95,25% kế hoạch và giảm 2,86%; tôm các loại 52,21 ngàn tấn, đạt 93,23% kế hoạch và tăng 1,52% (trong đó: tôm thẻ chân trắng 16,28 ngàn tấn, đạt 79,25% kế hoạch và giảm 16,40%); thủy sản khác 65,79 ngàn tấn, đạt 108,85% kế hoạch, tăng 21,15% so cùng kỳ năm 2014. Nuôi trồng thủy sản cả năm 2015 sản lượng của hầu hết các loại đều không đạt kế hoạch và giảm so với năm trước nhất là sản lượng tôm thẻ chân trăng giảm mạnh (giảm 3.195 tấn so cùng kỳ) do thời tiết năm nay diển biến bất thường, nắng nóng, khô hạn kéo dài, giá tôm bán ra thấp nên các doanh nghiệp, hộ dân chưa mạnh dạn thả nuôi. Diện tích thả nuôi tôm ước thực hiện cả năm là 100.885 ha, đạt 112,09% kế hoạch năm, trong đó: diện tích nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp 2.132 ha, đạt 71,07% kế hoạch. ( diện tích tôm thẻ chân trắng được 2.009 ha, đạt 85,13% kế hoạch). Riêng diện tích tôm – lúa được 77.866 ha, đạt 110,06% kế hoạch và tăng 8,9% so cùng kỳ (tăng 6.366 ha) và tôm nuôi quảng canh cải tiến được 20.887 ha đạt 128,54% kế hoạch và tăng 22,52% so cùng kỳ năm 2014. Nhìn chung, năm 2015 hoạt động sản xuất thủy sản về khai thác và nuôi trồng có những mặt thuận lợi đó là: Nhà nước đã có nhiều chính sách phù hợp để phát triển ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh như Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính Phủ về một số chính sách phát triển thủy sản, Quyết định số 1705/QĐ-UBND … Triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho nuôi trồng thủy sản (nhất là vùng nuôi tôm công nghiệp), thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân vay vốn chuyển đổi, cải hoán nâng cao công suất phương tiện đánh bắt xa bờ, nâng dần chất lượng sản phẩm có giá trị cao nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong và ngoài nước, từ đó nâng cao giá trị và sản lượng so với năm trước. Tuy nhiên, tình hình khai thác và nuôi trồng vẫn còn nhiều khó khăn: Về nuôi trồng do thời tiết năm nay không thuận lợi, khô hạn kéo dài, nước biển xâm nhập sâu, nhiệt độ chênh lệch cao giữa ngày và đêm nên đã xãy ra dịch bệnh trên tôm, giá tôm nguyên liệu từ đầu năm đến nay luôn ở mức thấp do sự cạnh tranh của các nước nên người nuôi không có lợi nhuận, dẫn đến các doanh nghiệp, hộ nuôi tôm chưa mạnh dạn đầu tư hết diện tích sẳn có nên ảnh hưởng khá lớn đến nuôi trồng thủy sản trong tỉnh; Về khai thác do nguồn hải sản ngày một cạn kiệt, từ việc khai thác bừa bãi đã làm hủy diệt môi trường sống và sinh sản các loài hải sản, sản lượng cá tạp tuy có giảm nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng cao làm giá trị khai thác chưa cao. 5. Sản xuất công nghiệp Năm 2015, sản xuất công nghiệp trong tỉnh tương đối ổn định và có chiều hướng tăng, việc thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp đã có nhiều hiệu quả, nhà máy Bia Sài Gòn -Kiên Giang đã vận hành và cho ra sản phẩm tiêu thụ, các nhà máy Vinatex Kiên Giang, nhà máy chế biến gỗ MDF, nhà máy nước Thạnh Lộc... đang trong quá trình xây dựng hoàn thiện là những điểm nhấn cho sự phát triển ngành công nghiệp của tỉnh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn như: khó tiếp cận nguồn vốn vay, lực lượng có tay nghề còn thiếu, thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn nhất là xuất khẩu gạo, hàng thủy sản… làm ảnh hưởng đến mức sản xuất của ngành. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) năm 2015 ước thực hiện 34.972,19 tỷ đồng, đạt 98,20% kế hoạch và tăng 11,91% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 33.265,11 tỷ đồng, tăng 12,10%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 1.057,43 tỷ đồng, tăng 7,71%; ngành khai khoáng 447,8 tỷ đồng, tăng 8,13% và ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải đạt 201,8 tỷ đồng, tăng 11,83% so với năm 2014. Một số sản phẩm công nghiệp sản xuất trong năm đạt mức tăng so với cùng kỳ năm trước như: Xi măng Trung ương 1.022,06 ngàn tấn, đạt 97,34% kế hoạch và tăng 16,18%; xi măng địa phương 876,45 ngàn tấn, đạt 115,32% kế hoạch và tăng 13,59%; clinker 2.321,48 ngàn tấn, đạt 98,79% kế hoạch và tăng 3,56%; mực đông đạt 20,45 ngàn tấn, đạt 123,98% kế hoạch và tăng 6,55%; cá hộp 11 ngàn tấn, đạt 100% kế hoạch và tăng 6,99%; nước máy 30,62 triệu m3, đạt 103,79% kế hoạch và tăng 12,32%. Bên cạnh đó còn một số sản phẩm sản xuất thấp giảm so cùng kỳ như: Bao bì PP 37.858 ngàn cái, đạt 81,42% kế hoạch và giảm 7,77%; đường các loại 4,8 ngàn tấn, đạt 69,09% kế hoạch và giảm 4,81 %. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Tính đến 30/12/2014 tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là 4.358 DN (tăng 437 DN so cùng kỳ). Tính đến đầu tháng 11 năm 2015 số doanh nghiệp đăng ký mới là 995 doanh nghiệp với quy mô vốn là 8.685 tỷ đồng; số doanh nghiệp giải thể 358 doanh nghiệp (chỉ bằng 35,98% số DN thành lập mới), quy mô vốn: 1.768,7 tỷ đồng. Các doanh nghiệp giải thể ( đa số là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, lẻ) do kinh doanh không hiệu quả. 6. Thương mại, dịch vụ và giá cả 6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ phục vụ tiêu dùng: Hoạt động thương mại năm 2015 trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và có xu hướng tăng hơn cùng kỳ năm trước, với lượng hàng hóa cung cấp dồi dào, đa dạng mẫu mã, giá cả hợp lý để phục vụ nhân dân trong các dịp lễ, Tết..., ngoài ra thực hiện các chương trình khuyến mãi và đưa hàng về nông thôn, vùng sâu, vùng xa của các doanh nghiệp cũng góp phần nâng tổng mức bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ dự kiến cả năm đạt 64.467 tỷ đồng, bằng 100,03% kế hoạch năm và tăng 15,6% so cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng là 14,42% (cao hơn cả nước) so với các năm gần đây thì tốc độ tăng năm 2015 vẫn duy trì ở mức khá cao. Chia ra:Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 50.173,35 tỷ đồng, chiếm 77,83% trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ toàn tỉnh, tăng 15,41% so cùng kỳ; Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước thực hiện 6.389 tỷ đồng, tăng 7,32% so với cùng kỳ; Doanh thu du lịch lữ hành: ước thực hiện 158,43 tỷ đồng tăng 16,95% so cùng kỳ; Doanh thu dịch vụ khác: Doanh thu dịch vụ khác đạt 7.746,24 tỷ đồng, tăng 22,01% so cùng kỳ; chủ yếu từ kinh doanh bất động sản 3.111 tỷ đồng; dịch vụ vui chơi giải trí 3.027,8 tỷ đồng; dịch vụ y tế 465,65 tỷ đồng… 6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu ước đạt được 400,81 triệu USD, bằng 76,20% kế hoạch năm và giảm 15,94% so với cùng kỳ năm 2014 (giảm 76,01 triệu USD). Bao gồm: hàng nông sản 236,68 triệu USD, bằng 75,14% kế hoạch và giảm 14,16% (giảm 39,05 triệu USD) so cùng kỳ; hàng thủy sản đạt 137,37 triệu USD, bằng 80,81% kế hoạch năm và giảm 19,46% (giảm 33,18 triệu USD) và hàng hóa khác đạt 26,76 triệu USD, bằng 65,27% kế hoạch năm và giảm 12,37% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu thủy sản cả năm đều giảm so cùng kỳ năm 2014 như: tôm đông lạnh đạt 2.100 tấn, giảm 1.629 tấn; cá đông 2.500 tấn, giảm 1.150 tấn; cá đóng hộp 24.000 triệu lon, giảm 90 ngàn lon. Riêng mặt hàng thủy sản đông khác 16.500 tấn, tăng 8.201 tấn so cùng kỳ năm 2014. Tình hình xuất khẩu cả năm của các doanh nghiệp trong tỉnh còn gặp khó khăn về cạnh tranh xâm nhập thị trường tiêu thụ, vốn và hiệu quả kinh doanh thấp. Mặt hàng gạo xuất khẩu chủ lực của tỉnh giảm 42,07 ngàn tấn, tương đương 17,17 triệu USD, nguyên nhân do cạnh tranh gay gắt về giá và chất lượng gạo với các nước có trử lượng gạo xuất lớn như Ấn Độ, Thái Lan, Pakistan…(giá xuất khẩu gạo bình quân 10 tháng giảm 30 USD/tấn so cùng kỳ) từ đó hiệu quả xuất khẩu gạo chưa cao nên các doanh nghiệp thận trọng trong ký kết hợp đồng; Riêng mặt hàng thủy sản trong năm lượng xuất giảm hơn cùng kỳ, do nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến của tỉnh không ổn định về chất lượng, thị trường xuất khẩu chủ yếu như các nước khối EU, Nhật Bản ngày càng yêu cầu gay gắt về đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu cả năm ước tính trị giá nhập 60 triệu USD, đạt 100% kế hoạch năm và tăng 2,3 lần so cùng kỳ năm 2014. Các mặt hàng nhập khẩu toàn bộ là nguyên liệu dùng cho sản xuất như: máy móc thiết bị của các nhà máy đang đầu tư như: nhà máy chế biến gỗ MDF, May Vinatex...và nguyên liệu dùng cho sản xuất như gỗ xẻ, than đá, thạch cao giấy krap…thiết bị máy móc của công ty Vinpear Phú Quốc và tập đoàn cao su Việt Nam. 6.3 Vận tải Vận tải hành khách: Ước thực hiện cả năm được 63,18 triệu lượt khách, đạt 101,70% kế hoạch và tăng 8,85% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 3.718,29 triệu HK.km, đạt 107,24% kế hoạch và tăng 8,28% so cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vận tải hành khách đường bộ 50,78 triệu lượt khách, tăng 8,94% so cùng kỳ và luân chuyển 2.949,16 triệu lượt khách.km, tăng 7,92%; vận tải hành khách đường sông 10,57 triệu lượt khách, tăng 8,74% và luân chuyển 579,50 triệu lượt khách.km, tăng 10,35% ; vận tải hành khách đường biển 1,82 triệu lượt khách, tăng 7,11% và luân chuyển 189,62 triệu lượt khách.km, tăng 7,65%. Vận tải hàng hóa: Ước thực hiện cả năm được 9,30 triệu tấn, đạt 104,11% kế hoạch và tăng 8,64% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 1.258,98 triệu tấn.km, đạt 102,29% kế hoạch và tăng 8,83% so cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vận tải hàng hóa đường bộ 2,8 triệu tấn, tăng 7,81% và luân chuyển 390,69 triệu tấn.km, tăng 7,98 % so cùng kỳ năm trước; Vận tải hàng hóa đường sông 3,84 triệu tấn, tăng 9,58% và luân chuyển 481,54 triệu tấn.km, tăng 9,92%; Vận tải hàng hóa đường biển 2,66 triệu tấn, tăng 8,17% và luân chuyển 386,75 triệu tấn.km, tăng 8,35% so cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa năm 2015 tăng so với cùng kỳ năm trước, các doanh nghiệp vận tải thường xuyên cải tiến phong cách phục vụ nhằm đáp ứng thị hiếu của hành khách. Các phương tiện đường sông đã được thay thế tăng thêm tàu cao tốc đã rút ngắn thời gian đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển của khách trên các tuyến. Vận tải đường biển đã được các doanh nghiệp đầu tư trang bị phương tiện mới đảm bảo đủ nhu cầu đi lại của nhân dân trong dịp lễ, tết nhất là các tuyến Hà Tiên – Phú Quốc và các tuyến đi tham quan du lịch các đảo trong địa bàn tỉnh. Đã tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong việc triển khai đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn, kết quả thực hiện đầu tư xây dựng mới các tuyến đường GTNT trên địa bàn tỉnh dự kiến đạt 64,42Km, lũy kế 503,8 Km/745,85 Km đạt 67,55% so kế hoạch năm 2015, nâng tổng số Km đường GTNT của tỉnh là 4.283,8/7.084 Km đạt 60,47% so với chỉ tiêu HĐND tỉnh giao (Hoàn thành 60% đường GTNT năm 2015 do HĐND tỉnh giao); nhựa hóa đường về trung tâm xã hoàn thành thêm 3 xã (xã Lình Huỳnh và Sơn Bình thuộc huyện Hòn Đất; xã Thạnh Đông B, huyện Tân Hiệp) đạt 103/103 xã đạt 100% so Nghị quyết đề ra. 6.4. Du lịch Tổng lượt khách du lịch cả năm ước thực hiện đạt 4.364,98 ngàn lượt khách, đạt 103,07% kế hoạch năm, tăng 15,84% cùng kỳ năm trước, trong đó lượt khách đến các khu vui chơi, điểm du lịch là 2.390,07 ngàn lượt khách (tăng 11,68%); Lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch là 1.974,9 ngàn lượt khách, đạt 98,5% kế hoạch và tăng 21,31% (tăng 346,86 ngàn lượt khách), trong đó khách quốc tế 220,98 ngàn khách, đạt 100,45% kế hoạch và tăng 14,23% so cùng kỳ (tăng 27,52 ngàn khách). Trong số khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch bao gồm: khách đến các cơ sở lưu trú phục vụ được 1.820,48 ngàn lượt khách, đạt 99,48% kế hoạch, tăng 21,71% (tăng 324,72 ngàn lượt khách) so cùng kỳ năm trước và khách du lịch theo tour 154,42 ngàn lượt, đạt 88,24% kế hoạch và tăng 16,74% so cùng kỳ. Tổng số ngày khách ước tính 3.445,49 ngàn ngày, đạt 101,07% kế hoạch, tăng 26,53% so cùng kỳ, trong đó ngày khách quốc tế (tăng 12,02%). Năm 2015, hoạt động du lịch có tín hiệu lạc quan số khách đến cơ sở kinh doanh du lịch tăng khá cao so kế hoạch và cùng kỳ năm trước, trong đó có khách quốc tế tăng trên 14%. Thể hiện khách đến tham quan du lịch được thu hút bởi cảnh quan thiên nhiên của biển đảo, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch từng bước được đầu tư nâng cấp thêm như Cảng hàng không Quốc tế Phú Quốc và đường điện ngầm xuyên biển Hà Tiên ra Phú Quốc, đường điện ra huyện đảo Kiên Hải, quần thể khu du lịch nghĩ dưỡng Vinpearl trên 300 ha… đã thu hút nhiều khách trong và ngoài nước đến tham quan khu du lịch biển đảo này. Tuy nhiên, để hoạt động du lịch của tỉnh phát triển mạnh và đi xa hơn, cần đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở lưu trú cho đồng bộ, khoa học, hiện đại hơn nữa, tăng cường công tác xúc tiến quảng bá du lịch cả trong và ngoài nước, cải tiến cung cách phục vụ mang tính chuyên nghiệp để làm hài lòng khách, tạo điều kiện cho du khách đến tham quan du lịch ngày càng tăng và thời gian nghỉ dưỡng lâu dài hơn. 6.5. Bưu chính - Viễn thông Ngành Thông tin và Truyền thông chỉ đạo báo, đài thực hiện các ngày lễ lớn và quan trọng của đất nước như: ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (03/02), Giỗ tổ Hùng Vương(10/03 âm lịch), ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/04), kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng tám (19/8/1945) và Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945)… Đồng thời thường xuyên chú trọng công tác tuyên truyền Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Làm tốt công tác tuyên truyền và đưa thông tin về cơ sở; tuyên truyền về kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học quốc gia lần đầu tiên, phục vụ nhu cầu đọc sách miễn phí của người dân ở các điểm Bưu điện - Văn hóa xã. Trên toàn tỉnh hiện có 28 bưu cục và 137 điểm bưu điện văn hóa xã; bán kính phục vụ 3,1 km/điểm. Tổng doanh thu bưu chính và viễn thông cả năm ước đạt 2.070 tỷ đồng, đạt 115,45% kế hoạch và tăng 4,49% so cùng kỳ năm 2014, trong đó bưu chính được 90 tỷ đồng, tăng 36,36% so cùng kỳ và viễn thông được 1.980 tỷ đồng, tăng 3,45% so cùng kỳ năm trước. Tổng thuê bao điện thoại hiện có trên mạng 1,904 triệu thuê bao, tăng 1,75%, so với cùng kỳ, trong đó di động 1,812 triệu thuê bao. Mật độ thuê bao đạt 109 thuê bao/100 dân. Tổng thuê bao internet hiện có 85.734 thuê bao, tăng 14,33% so cùng kỳ. Thời gian qua, công tác phối hợp kiểm tra hoạt động bưu chính, dịch vụ viễn thông, Internet, phát thanh- truyền hình thực hiện tốt, từ đó đảm bảo hoạt động thông tin, truyền thông được an toàn, thông suốt, phục vụ tốt doanh ngiệp, người dân và các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh. B. VỀ XÃ HỘI 7. Một số vấn đề về xã hội 7.1. Dân số, lao động việc làm, đào tạo nghề và chính sách an sinh xã hội: Dân số trung bình của tỉnh năm 2015 ước tính 1.762.281 người, tăng 0,64% so với năm 2014, bao gồm: dân số nam 885.635 người, chiếm 50,26% tổng dân số toàn tỉnh, tăng 0,51%; dân số nữ 876.646 người, chiếm 49,74%, tăng 0,77%. Dân số trong khu vực thành thị 483.613 người, chiếm 27,44% dân số của tỉnh, tăng 1,14%; dân số khu vực nông thôn 1.278.668 người, chiếm 72,56%, tăng 0,46%. Với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 9,77‰, tỷ lệ giảm sinh -0,36‰. Trong năm đã giải quyết việc làm cho khoảng 33.000 lượt người, đạt 100% kế hoạch năm, trong đó: giải quyết việc làm trong tỉnh được 16.000 lượt người, ngoài tỉnh 16.900 lượt người, xuất khẩu lao động 100 người (chủ yếu tại thị trường nhật Bản, Hàn Quốc); tổ chức dạy nghề cho 45.000 người, đạt 100% kế hoạch, trong đó: sơ cấp nghề và dạy nghề dưới ba tháng được 43.650 người. Thực hiện chính sách an sinh xã hội: từ đầu năm đến nay đã xây dựng và bàn giao 168 căn nhà tình nghĩa cho đối tượng chính sách với kinh phí 8,4 tỷ đồng, dự kiến đến cuối năm sẽ bàn giao xong 280 căn, đạt 100% kế hoạch năm; chi trợ cấp xã hội cho 41.480 đối tượng, với kinh phí 138,6 tỷ đồng; Chi cấp 41.618 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo với số tiền trên 25,7 tỷ đồng và hỗ trợ 47.882 thẻ BHYT cho hộ cận nghèo với số tiền trên 27,2 tỷ đồng. Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, ước năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn khoảng 2,73%, giảm 0,85% so với năm 2014. 7.2. Về Giáo dục: Ngành giáo dục tiếp tục đổi mới phương pháp và ứng dụng công nghệ thông tin vào chương trình giảng dạy; phối hợp tổ chức tốt kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quôc gia năm 2015 theo hướng đổi mới, đã có 11.317 thí sinh dự thi, kết quả có 10.092 thi sinh tốt nghiệp, đạt 89,17%, trong đó hệ trung học phổ thông đạt 90,94%, giảm 8,45%; hệ giáo dục thường xuyên đạt 70,02%, giảm 23,87% so với năm học 2014. Huy động được 333.866 học sinh đến trường, trong đó tỷ lệ huy động học sinh từ 6-14 tuổi đạt 96,03%; trẻ từ 3-5 tuổi đi học mẫu giáo đạt 60,2%, trong đó trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt 97,3% Năm học 2015-2016 ( tính đến 30/9/2015), toàn tỉnh hiện có 649 trường, tăng 10 trường so với năm học trước, (bao gồm: 136 trường mầm non, tăng 10 trường; tiểu học: 296 trường; Trung học cơ sở: 122 trường; Phổ thông cơ sở 44 trường; Trung học phổ thông: 23 trường, các trường bậc học phổ thông năm nay không tăng giảm so với năm trước); Hệ giáo dục mầm non huy động được 41.347 học sinh, tăng 572 học sinh;có tổng số 1.603 lớp học, tăng 65 lớp; tổng số 2.080 giáo viên, tăng 145 giáo viên so năm học trước; Hệ giáo dục phổ thông huy động được 10.131 lớp học và 290.558 học sinh (giảm 49 lớp và tăng 1.824 học sinh); tổng số giáo viên 16.471 người (tăng 137 giáo viên) so năm học trước, (bao gồm: 9.054 giáo viên tiểu học, tăng 112 giáo viên, 5.306 giáo viên trung học cơ sở tăng 30 giáo viên và 2.111 giáo viên trung học phổ thông, giảm 5 giáo viên), theo Ngành giáo dục hiện tại còn thiếu 1.227 giáo viên của các ngành học, cấp học (MN 881, TH 134, THCS 188, THPT 24). Số trường đạt chuẩn Quốc gia 174 trường, chiếm tỷ lệ 26,20%, tăng 27 trường so cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, năm qua hệ thống trường, lớp học tiếp tục được đầu tư nâng cấp, chất lượng giáo dục phát triển ổn định, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp tăng, tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm, công tác phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi được đặt biệt quan tâm, nổ lực thực hiện...Tuy nhiên, mặc dù được Trung ương, địa phương quan tâm đầu tư xây dựng trường, lớp học nhưng so với nhu cầu thực tế vẫn còn thiếu, kế hoạch thực hiện phổ cập GDMN 5 tuổi còn chậm, hiện có 127/145 xã, phường, thị trấn hoàn thành PCGDMN trẻ 5 tuổi, đạt 87,58%. 7.3. Về y tế: Toàn tỉnh hiện có 159 cơ sở điều trị, với 5.152 giường bệnh (kể cả giường bệnh Trạm y tế xã), số cán bộ y tế 7.854 người, trong đó có 1.070 bác sĩ, đạt bình quân 6,07 bác sĩ trên vạn dân. Tổng số lượt khám chữa bệnh dự kiến cả năm là 4.817,7 ngàn lượt, đạt 107,06% KH năm và tăng 5,88% so cùng kỳ năm trước và số điều trị nội trú là 223,9 ngàn người, đạt 97,35% kế hoạch, giảm 1,79% so cùng kỳ. Tổng số trạm y tế có bác sĩ hoạt động là 111/145 trạm đạt 76,55%, trong đó có 70/145 trạm có bác sĩ cố định và 41/145 trạm có bác sĩ tăng cường; 139/141 trạm có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi hoạt động cố định. Tổ chức triển khai thực hiện Luật BHYT (có hiệu lực từ 1/01/2015), gắn với tuyên truyền vận động người dân tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình, đến nay tỷ lệ bao phủ BHYT toàn tỉnh dự kiến đạt 70% đạt mục tiêu HĐND tỉnh giao năm 2015. Tình hình dịch bệnh 10 tháng đầu năm 2015 số mắc/số tử vong như sau: Sốt xuất huyết (348/0), tay chân miệng (630/0), thủy đậu (182/0), quai bị (173/0), Bệnh Thương hàn và Phó Thương hàn (21/0), Cúm A H5N1 (0/0), Bệnh tiêu chảy (5.678/0), lỵ trực trùng (190/0), lỵ Amip (128/0), cúm thường (3.464/0), Đau mắt đỏ (30/0), Sởi (0/0). So với cùng kỳ năm 2014, số mắc tăng (+), giảm (-) như sau: Sốt xuất huyết (0), tay chân miệng (-764), thủy đậu (-135), quai bị (+64), Thương hàn và Phó Thương hàn (-36), Cúm A H5N1 (0), Tiêu chảy (+178), lỵ trực trùng (-61), lỵ Amip (-61), cúm thường (+121), đau mắt đỏ (-154), Sởi (-50). Nhìn chung, tình hình dịch bệnh được kiểm soát. Bệnh sốt xuất huyết đang hình thành dịch ở các tỉnh miền Đông và các tỉnh lân cận. Riêng tỉnh ta trong 2 tháng trở lại đây số cas mắc có xu hướng tăng, nhưng tổng số từ đầu năm bằng với cùng kỳ 2014. Tuy nhiên trong thời gian tới cần phải tập trung hơn nữa nhằm ngăn chặn bùng phát thành dịch lớn. Chương trình mục tiêu quốc gia Y tế: Bệnh Phong khám 74.794 người, đạt 149% kế hoạch; phát hiện mới 10 bệnh nhân (đạt 71,43%); số bệnh nhân đang quản lý là 481 (đạt 99,38%). Số bệnh nhân chăm sóc tàn tật là 334 (đạt 77,67%). Bệnh Lao: Xét nghiệm 33.274 lam (đạt 88,84%), phát hiện mới 2.194 bệnh nhân (đạt 87,90%), số bệnh nhân quản lý là 4.725 người (đạt 93,79%), điều trị khỏi bệnh 1.912 người (đạt 85,74%). Bệnh Sốt rét: Xét nghiệm 14.394 lam (đạt 95,96% kế hoạch), kết quả phát hiện 9 BN sốt rét mới. Tỷ lệ mắc/100.000 dân là 0,51 (cùng kỳ 2014 là 0,17). Khám và điều trị dự phòng cho 96 người (đạt 24%). Dân số được bảo vệ bằng phun hóa chất và tẩm mùng là 29.787 người (đạt 114%). Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Thực hiện xét nghiệm 46.632 mẫu máu, đạt 259% kế hoạch năm. Phát hiện mới 156 cas HIV dương tính (kế hoạch 203 cas). Tính đến thời điểm 30/9/2015, số người còn sống ở địa phương nhiễm HIV là 1.959 người, trong giai đoạn AIDS là 1.309 người. Chương trình mục tiêu quốc gia Vệ sinh an toàn thực phẩm: Hoàn thành 149 hồ sơ công bố hợp quy, phù hợp quy định ATTP (đạt 149%); cấp giấy chứng nhận cho 316 cơ sở đủ điều kiện ATTP (đạt 52,67%); tiến hành thanh, kiểm tra 16.834 lượt (đạt 115%). Số mẫu xét nghiệm là 1.388 mẫu (đạt 77,11%), test nhanh 1.682 mẫu (đạt 62,3%). Tổ chức 128 lớp bồi dưỡng kiến thức an toàn thực phẩm cho 5.472 người (đạt 84,18% kế hoạch). Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm ở Thị xã Hà Tiên, với 35 người mắc. Tỷ lệ ca ngộ độc trong các vụ ngộ độc thực phẩm được báo cáo trên 100.000 dân là 1,99 (kế hoạch <6). Có 92 trường hợp mắc lẻ, trong đó ngộ độc cồn (84 cas), rối loạn tiêu hóa do ăn uống (5 cas), tác dụng độc do ăn đồ biển (3 cas). 7.4. Văn hóa, Thể thao: Ngành VH-TT-DL tập trung tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn, những sự kiện chính trị được tổ chức sôi nổi, rộng khắp, an toàn, tiết kiệm tạo được không khí vui tươi, phấn khởi, phục vụ đời sống tinh thần cho nhân dân, góp phần quảng bá tiềm năng thế mạnh của tỉnh, mở rộng giao lưu, hợp tác, hội nhập thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh. Công tác trùng tu tôn tạo, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc được chú trọng, trở thành điểm đến du lịch, thu hút khách đến tham quan, nghiên cứu. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phong trào thi đua “Chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phát triển quy mô, chất lượng các hoạt động thể dục thể thao, kết hợp với Ngành giáo dục tổ chức thành công Hội khẻo Phù đổng lần thứ XVI năm học 2014-2015, Phối hợp đăng cai tổ chức 03 môn thi đấu tại Đại hội Thể dục Thể thao Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VI và tham dự 15 môn thi đấu tại đại hội có trên 120 vận động viên tham dự, đạt 71 huy chương (25 HCV, 17 HCB, 29 HCĐ) xếp thứ 9/14 tỉnh, thành phố. Đăng cai tổ chức 6 giải thể thao khu vực, toàn quốc như Điền kinh, Bóng chuyền bãi biển nữ… và giải Tour xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Bến Tre lần thứ VII năm 2015; giải đua xe đạp nữ toàn quốc mở rộng tranh Cúp truyền hình An Giang lần thứ XVI… có trên 20 ngàn lượt khán giả đến xem và cổ vũ. Công tác thanh kiểm tra xử lý vi phạm trong ngành, đã triển khai 19 cuộc kiểm tra tại 476 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch trên địa bàn tỉnh (lĩnh vực văn hóa 274 cơ sở, thể thao 20 cơ sở, du lịch 182 cơ sở), kết quả lập biên bản nhắc nhở, buộc cam kết khắc phục 234 cơ sở, lập biên bản vi phạm hành chính 33 cơ sở, quyết định xử phạt vi phạm 304 triệu đồng. 7.5. Tình hình an toàn giao thông: Theo Ban An toàn Giao thông tỉnh, tính từ đầu năm đến ngày 15/11/2015 trên toàn tỉnh xảy ra 293 vụ TNGT, làm 133 người chết và 285 người bị thương, trong đó tai nạn ít nghiêm trọng trở lên xảy ra 170 vụ, làm chết 133 người và bị thương 130 người. So với cùng kỳ năm 2014 số vụ TNGT giảm 63 vụ, tăng 14 người chết, giảm 79 người bị thương; trong đó số vụ tai nạn ít nghiêm trọng trở lên tăng 25 vụ, tăng 14 người chết,tăng 38 người bị thương. Số người chết vì TNGT nhiều nhất trên các huyện như: Phú Quốc (22 người), Hòn Đất (16), Châu Thành (17), Kiên Lương (14), Giồng Riềng (10)... 7.6. Thiệt hại do cháy nổ, thiên tai: Tính từ đầu năm đến 15/11/2015 xảy ra 60 vụ cháy, 01 vụ nổ; nguyên nhân chủ yếu là do chập điện, làm chết 2 người và bị thương 05 người. Thiệt hạt ước tính 7 tỷ 201,6 triệu đồng. So cùng kỳ năm trước số vụ cháy giảm 19 vụ, tuy nhiên mức thiệt hại lại giảm 1,346 tỷ đồng. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 của tỉnh bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số khó khăn: tình hình thời tiết diễn biến bất thường, nhất là hạn hán kéo dài, tình trạng xâm nhập mặn sâu, thiếu nước ngọt sinh hoạt xảy ra ở một số địa phương đã làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống, đặc biệt là sản xuất vụ Hè thu, dịch bệnh trên tôm nuôi, lúa, thị trường tiêu thụ chưa được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu nông sản sụt giảm, nhất là xuất khẩu mặt hàng gạo còn gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của các nước trong khu vực,cùng với nhiều yếu tố khách quan đã tác động không nhỏ đến sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, nhưng cơ bản vẫn có xu hướng phát triển tích cực, trong đó thu ngân sách đạt khá, sản xuất lúa đạt sản lượng cao hơn năm trước, một số lĩnh vực khác cũng tăng khá: Công nghiệp, thủy sản, tổng mức bán lẻ, du lịch, hoạt động giáo dục, văn hóa thông tin, TDTT và một số lĩnh vực xã hội khác có tiến bộ. Mặc dù tăng trưởng GRDP của tỉnh năm 2015 ước đạt 9,62%, tuy chưa đạt so với mục tiêu tăng trưởng của tỉnh đề ra cả năm là 10%, nhưng đây là mức tăng trưởng khá cao so cùng kỳ.( So với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như: An Giang tăng 6,00%; Đồng Tháp: 6,07%; Vĩnh Long 6,80%; Trà Vinh 8,31%; Cần Thơ 12,28%; Hậu Giang 6,18%; Tiền Giang 9,00%; Sóc Trăng 6,95%... ) Để đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng và sản xuất kinh doanh phát triển ổn định trong thời gian tới trước những biến động phức tạp của kinh tế trong và ngoài nước. Cục Thống kê có một số kiến nghị như sau: 1. Về sản xuất nông nghiệp, thủy sản: Rà soát, điều chỉnh quy hoạch nông nghiệp, nông thôn theo hướng tái cơ cấu nền nông nghiệp, tập trung phát triển sản xuất hàng nông sản có chất lượng cao, tạo điều kiện xây dựng thương hiệu có uy tín để chiếm lợi thế cạnh tranh xuất khẩu. Cần phải nhân rộng thực hiện cánh đồng mẫu lớn sản xuất theo hướng VietGAP nhằm mở rộng vùng nguyên liệu chất lượng cao, tập trung, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật về giống, bón phân và phòng trừ sâu bệnh, cơ giới hóa trong sản xuất, tạo kết nối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giúp giảm chi phí sản xuất cũng như tăng chất lượng, giá trị sản phẩm. Tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm không để xảy ra dịch bệnh, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; phối hợp với chính quyền địa phương vùng biên giới ngăn chặn tình trạng nhập lậu gia súc, gia cầm, góp phần ổn định phát triển chăn nuôi. Vận động, khuyến khích, hỗ trợ người nuôi tôm thực hiện áp dụng các quy trình thực hành nuôi tôm GAP, VietGAP, GlobalGAP để nâng chất lượng, diện tích, sản lượng tôm nuôi. Phát triển nuôi cá lồng bè trên biển quanh các đảo các huyện Phú Quốc, Kiên Hải, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên để tăng nhanh số lượng lồng và sản lượng nuôi, đồng thời hường dẫn và vận động người dân chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh sang phương thức nuôi bán công nghiệp, công nghiệp các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. 2. Ngành Ngân hàng triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả chính sách tiền tệ và các giải pháp tiền tệ, tín dụng của NHNN Việt Nam phù hợp với tình hình địa phương. Đồng thời, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn, với cơ chế cho vay linh hoạt đối với tài sản thế chấp, ưu tiên cho vay các lĩnh vực, ngành như phát triển nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu…theo quy định của Chính phủ. 3. Về sản xuất công nghiệp: Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp nông thôn, công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản xuất khẩu theo quy định của Chính phủ và của tỉnh. Hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp trong xây dựng phương án kinh doanh, trong đổi mới công nghệ sản xuất, chủ động nâng cao năng lực quản trị nhằm đưa ra những giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản cần liên kết, phối hợp với đơn vị nuôi trồng thủy sản để chủ động nguồn nguyên liệu thủy sản, nghiên cứu và nắm vững yêu cầu từng thị trường, nhất là các quy định về an toàn vệ sinh chất lượng sản phẩm thủy sản chế biến. 4. Về thương mại và du lịch: Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ nhất là mặt hàng chủ yếu như gạo, thủy sản. Cung cấp thông tin tình hình kinh doanh của thị trường thế giới và trong nước kịp thời đến với doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nắm bắt và có biện pháp chuyển hướng kinh doanh đạt hiệu quả. Trong lĩnh vực nội thương, tiếp tục tuyên truyền vận động người Việt ưu tiên dùng hàng Việt, quảng bá các sản phẩm uy tín, chất lượng; mở rộng thị trường bán lẻ, thực hiện nhiều hình thức khuyến mãi nhằm tăng sức mua. Tăng cường công tác kiểm tra chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả, hàng kèm chất lượng ảnh hưởng đến nhà sản xuất và sức khỏe nhân dân. 5. Về một số lĩnh vực xã hội: Công tác dạy nghề đáp ứng đủ lao động có tay nghề theo nhu cầu sử dụng, cung cấp nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng cho doanh nghiệp, nhất là số doanh nghiệp ở các khu công nghiệp chuẩn bị đi vào hoạt động. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giải quyết kịp thời các chế độ chính sách đúng đối tượng; thực hiện đạt hiệu quả trong chương trình xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho đối tượng thanh, thiếu niên trong tỉnh có việc làm ổn định./. Tải về: - Số liệu KTXH năm 2015
Số lần đọc: 2422
Cục Thống kê Kiên Giang |
Tin liên quan
|